Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa hạ tháng 4. Huệ Châu.
- Báo.
Một viên thám tử chạy đến trước mặt Hiệu úy Lưu Ân, vừa thở dốc vừa cung thân hành lễ. Lưu Ân chưởng quản đệ tam sư của Trấn Phong quân, nên mang hàm Hiệu úy. Lưu Ân khẽ gật đầu ra hiệu cho viên thám tử báo cáo tình hình quân giặc.
- Hồi báo Hiệu úy đại nhân. Minh tặc Huệ Châu vệ chỉ huy sứ Vương Vân hai ngày trước đã dẫn 3.000 phủ binh bỏ thành đào tẩu. Hiện tại Huệ Châu Thành không binh không tướng, đệ tứ vệ đã công chiếm Huệ Châu phủ nha môn, đang thanh lý dư đảng Minh tặc trong thành.
Lưu Ân biến sắc :
- Chạy rồi ?
Lưu Ân thống suất Trấn Phong quân đệ tam sư rời Quảng Châu bắc tiến, hướng về Phúc Kiến. Huệ Châu Thành nằm về phía đông bắc Quảng Châu, là một tòa đại thành án ngữ trên đường tiến quân. Sau khi dễ dàng chiếm lĩnh các huyện Nam Hải, Đông Hoàn, Lưu Ân cũng đồng thời bố trí việc tấn công chiếm lĩnh Huệ Châu, nơi có đến 3.000 quân Minh trấn thủ. Y đã tiêu tốn rất nhiều tâm lực chuẩn bị phương án tác chiến, nào ngờ chỉ sau một đêm, lại được tin báo quân Minh đã bỏ chạy mất rồi, giống như một đao toàn lực lại chém vào không khí vậy, cảm giác rất khó chịu. Lưu Ân nhíu mày, bảo viên tùy tướng :
- Ngô Vệ úy. Hãy suất lĩnh kỵ binh vệ đuổi theo Minh tặc, cố gắng làm chậm bước tiến của bọn chúng, chờ hậu quân của ta đến hợp công.
- Vâng.
Kỵ binh vệ úy Ngô Minh lập tức ứng tiếng, rồi suất kỵ binh vệ khẩn cấp đuổi theo quân Minh. Kể từ khi Đế quốc viện trợ lương thực khí giới cho Mông Cổ chư tộc, đã đổi về rất nhiều chiến mã. Một phần chiến mã được đưa đến nuôi dưỡng ở các quân mã trường ở Minh Châu (Úc Châu), một bộ phận cung cấp cho 8 đạo quân ở Đài Loan, thành lập lực lượng kỵ binh. Mỗi sư 1 vạn người đều có thành lập 1 kỵ binh vệ 1.000 người. Trước giờ kỵ binh vệ chưa từng tham gia tác chiến, dù ngày thường cố gắng huấn luyện, nhưng anh hùng không có đất dụng võ, nay mới được thử thân thủ, đương nhiên toàn quân tướng sĩ vô cùng hưng phấn, theo sự hướng dẫn của thám tử đuổi gấp theo quân Minh.
Tự trong lòng mà nói, Lưu Ân cũng cảm thấy ‘đồng tình’ phủ quân Quảng Đông. Toàn Quảng Đông có 19 châu phủ, 75 huyện. Quân đội phải chia ra trú đóng các nơi, mỗi phủ có thể có 1 vệ sở, cũng có khi chỉ có vài nghìn, mỗi huyện vài trăm huyện binh; lực lượng phân tán khắp nơi, mà các tướng lĩnh đâu dám tự tiện rời trú sở, chỉ có thể ở tại chỗ cố thủ, và cầu mong đối phương không đánh đến nơi. Vì vậy, đối 3.000 phủ binh Huệ Châu, Lưu Ân tin chắc có thể toàn diệt. Nhưng y không ngờ chưa giao chiến mà quân Minh đã bỏ thành mà chạy, à không, đã ‘chiến thuật chuyển di’ mất rồi. Kế hoạch đã chuẩn bị rất chu đáo mà giờ đây lại không có chỗ dùng.
- Ai ! Minh tặc chẳng có kẻ nào là tốt cả. Uổng công ta …
Lưu Ân khẽ lắc đầu, khóe miệng bất giác nhếch lên lộ ra một tia cười lạnh. Nếu như ngươi đã dám bỏ chạy, ta sẽ giúp ngươi tuyên truyền, xem Minh triều sẽ xử trí việc này như thế nào. Địch quân chưa đến đã bỏ thành mà chạy, tội này …
- Truyền lệnh đệ ngũ vệ phối hợp đệ tứ vệ nhanh chóng thanh lý Minh tặc trong thành. Đệ nhất vệ, đệ nhị vệ, đệ tam vệ men theo Đông Giang mà tiến quân, công chiếm các huyện Bác La, Long Xuyên, Hà Nguyên, … Đệ lục vệ, đệ thất vệ theo quan đạo tiến thẳng đến Vĩnh An. Đệ bát vệ, đệ cửu vệ hiệp trợ kỵ binh vệ đuổi theo Minh tặc.
Quân Minh không còn, Lưu Ân quyết định chia quân công chiếm toàn bộ 8 huyện của Huệ Châu phủ. Mệnh lệnh truyền xuống, quân đội lập tức chia đường hành động.
Nói về kỵ binh vệ sau khi rời Huệ Châu lập tức phóng ngựa phi nhanh. Huệ Châu vệ chỉ huy sứ Vương Vân đã bỏ chạy cách nay hai ngày rồi. Tuy thời gian đã qua mấy ngày, nhưng dù sao cũng đông đến 3.000 người, dấu vết để lại rất rõ ràng.
Đuổi theo một lúc, viên thám tử hướng đạo đột nhiên hô quân đội dừng lại, rồi chạy vào bên mé đường, đến một gốc cây không thấy có gì đặc biệt, lần mò một lúc, lôi ra một ống trúc nhỏ. Gã bẻ gãy ống trúc lấy ra một bức mật thư, dùng một loại chất lỏng đồ lên, đọc xong, rồi chạy lại nói với kỵ binh vệ úy Ngô Minh :
- Vệ úy đại nhân. Minh tặc không chạy đến Hải Phong mà chuyển hướng Đồng Sơn đi về phía Liên Hoa Sơn. Nơi đó núi non hiểm trở, đường lối lại thông hướng nhiều nơi. Lưu bọn Minh tặc ở đó thật không có lợi cho quân ta.
Ngô Minh khẽ gật đầu. Nếu như quân Minh bỏ chạy luôn thì không nói làm gì. Còn nếu như bọn họ trốn vào Liên Hoa Sơn chuẩn bị đánh du kích thì thật không ổn. Mặc dù Ngô Minh tin rằng quân Minh tướng sĩ sống an nhàn sung sướng ở phủ thành quen rồi, chưa chắc đã có thể chịu đựng được cuộc sống gian khổ trong rừng núi, đặc biệt lúc này lại đang là mùa mưa. Nhưng dù sao thì cẩn thận vẫn hơn. Ngô Minh suy nghĩ một lúc, rồi truyền lệnh :
- Lập tức chuyển hướng Đồng Sơn, cấp tốc hành quân, cố đuổi cho kịp Minh tặc. Diệt xong Minh tặc chúng ta sẽ nghỉ ngơi. Các huynh đệ, kỵ binh vệ chúng ta lần đầu xuất trận, phải đánh làm sao cho thật oanh oanh liệt liệt.
Chúng kỵ binh lớn tiếng vâng dạ. Toàn quân lại khẩn cấp tiền tiến. Đuổi theo gần một ngày, bọn họ đã nhìn thấy quân Minh phía trước. Quân Minh cũng đã phát hiện bọn họ, dừng quân dàn trận ứng chiến. Bộ binh gặp phải kỵ binh, có bỏ chạy cũng vô ích. Hai chân người không thể nào chạy nhanh bằng 4 chân ngựa.
Kỵ binh vệ chỉ có 1.000 người, quân Minh có đến 3.000, dù giao chiến vẫn có thể thắng được, nhưng tất nhiên sẽ tổn thất nặng. Đây là lực lượng kỵ binh duy nhất của Trấn Phong quân đệ tam sư, không thể chỉ đánh một trận rồi thôi. Ngô Minh suy nghĩ thật nhanh, rồi truyền lệnh :
- Giữ khoảng cách an toàn, kỵ xạ.
Liền đó kỵ binh phóng ngựa đến khoảng cách quân Minh ước 20 trượng (tức 80 mét), giương cung phóng tên. Một nghìn mũi tên đồng loạt rải xuống đầu quân Minh, ít ra cũng khiến quân Minh tổn thất vài trăm. Trong đội hình quân Minh lập tức vang lên những tiếng rên la kêu gào inh ỏi của những người thọ thương nhưng chưa chết.
Nhìn thấy cảnh đó, Huệ Châu vệ chỉ huy sứ Vương Vân tâm thần choáng váng, kinh hãi không sao kể siết. Quân giặc thật là hiểm ác. Kỵ binh đối chiến bộ binh, không chịu xung phong tấn công mà ở ngoài bắn cung như thế, thật là … thật là bỉ ổi vô sỉ mà.
Ngô Minh chẳng cần biết có bỉ ổi vô sỉ hay không. Nhiệm vụ của gã chỉ là cầm chân quân Minh, chờ đại quân đến nơi sẽ hợp lực tiêu diệt. Trong chiến thuật chiến tranh của Đế quốc không cho phép ‘giết địch 1.000, tự tổn 800’, trừ phi tình huống đặc thù. Có điều lúc này không phải là tình huống đặc thù.
Kỵ binh lại phóng loạt tên thứ hai, khiến quân Minh tổn thất thêm vài trăm người nữa. Quân sĩ Huệ Châu vốn là ‘lính kiểng’, bình thường chỉ giữ thành, làm oai với bình dân bách tính, chứ không phải tinh binh cường tướng để tham gia chiến tranh, vì thế trang bị cũng bình thường, trừ một số tướng lĩnh, quân đội sĩ tốt chỉ mặc áo vải, không ai có áo giáp hay hộ tâm kính cả, vì thế mà khi bị trúng tên khó tránh khỏi thương vong. Đặc biệt là khi trên đầu mũi tên có một rãnh nhỏ, sau khi ngâm vào mấy thứ thuốc nước lấy từ chỗ Thạch Lang Pháp sư thì chất thuốc bám lại đấy, ai bị bắn trúng, chất đó hòa tan vào máu, không làm chết người ngay mà … Nhìn cảnh quân Minh lúc này cũng đủ biết. Đại đa số quân Minh trúng tên lúc này chưa chết hẳn, ôm vết thương lăn lộn dưới đất, kêu gào inh ỏi, máu tuôn không ngừng, thảm cảnh khiến đồng bạn không khỏi rợn người.
Không còn cách nào khác, Vương Vân đành suất lĩnh sĩ tốt xung phong. Khoảng cách chẳng có bao xa, chỉ cần cố chịu một loạt tên là có thể cùng kỵ binh hỗn chiến. Kỵ binh mất đi tốc độ, mất đi khoảng cách thì chẳng khá hơn bộ binh bao nhiêu. Có điều Ngô Minh đời nào để cho đối phương toại nguyện. Kỵ binh được lệnh lùi ra xa, rồi tiếp tục phóng tên. Khi đối phương lại gần thì lại tiếp tục lùi ra xa, rồi bắn tên tiếp. Cứ như thế, sau loạt tên thứ 5, quân Minh đã tổn thất quá nửa, chỉ còn lại hơn 1.000 người.
Tấn công vô ích, bỏ chạy vô môn, Vương Vân đành suất lĩnh tàn binh chạy về phía một ngọn đồi gần đấy. Sau khi đã chạy lên đồi, bọn họ lăn đá xuống, chặt cây ném xuống ngăn cản kỵ binh, tạm thời có được một chỗ yên thân để nghỉ ngơi.
Quân Minh không thể chạy được nữa, Ngô Minh kể như đã hoàn thành nhiệm vụ, nên cũng không gấp tấn công, chỉ cho quân chia ra bao vây ngọn đồi đề phòng quân Minh đào thoát.