Hàn Thuật là một người trưởng thành, vì vậy anh nhanh chóng nhận ra điều này nửa là bởi anh, nửa là bởi bóng tối và hơi thở mơ hồ ấm áp mà hỗn loạn, hơi thở ấy như cây anh túc, cùng với những xấu xa trong tim anh, từng chút một hối thúc đóa hoa nguy hiểm chết người ấy hé nở.
.
(1). Câu trong bài thơ “Cẩm sắt” của Lý Thương Ẩn, liên quan đến điển cố Trang Tử vì nằm mơ thấy hồ điệp (bươm bướm) mà hiểu ra một triết lý, về sau bị cuốn hút bởi những giấc mơ thấy hồ điệp. Ý nói mỗi người đều có những gửi gắm và nghĩa vụ của mình nhưng lại cứ ngờ nghệch bị tình cảm quấy nhiễu.
.
Màn “đạp xe” diễn ra được mấy vòng trong khoảng sân thì Phi Minh đã mệt đến không chơi nổi nữa, cô bé trước còn khăng khăng muốn chờ đón giao thừa, lúc này tâm vẫn còn mà lực chẳng có, ngồi trên chiếc ghế tre chưa được bao lâu đã mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi.
Sợ cô bé thể chất yếu ớt lại ngồi chỗ có gió lâu dễ bị lạnh, Hàn Thuật bế cô bé vào giường, Cát Niên cầm mền theo sau. Phi Minh có cảm giác bị nâng bổng, rì rầm nói mê mấy câu nhưng cũng không tỉnh dậy. Từ nhỏ cô bé đã có thói quen ở nhà nằm chỗ nào mệt là ngủ chỗ đấy, xem ti vi, làm bài tập, đều có thể bò ra làm công chúa ngủ trong rừng, nếu đang ngủ bị đánh thức thể nào cũng cáu giận khóc lóc một hồi. Khi Phi Minh còn nhỏ hơn bây giờ, Cát Niên vẫn có thể bế cô bé đang say ngủ vào phòng, nhưng Phi Minh càng ngày càng lớn, cơ thể cũng lớn theo, “lao động khổ sai” là Cát Niên cũng ngày càng lực bất tòng tâm. Nhìn Hàn Thuật nhấc bổng Phi Minh chẳng tốn chút sức lực, dù Cát Niên cảm thấy mình đã có thể ứng phó với bất cứ việc gì trong cuộc sống, cũng vẫn đành phải thừa nhận, Thượng đế cho người phụ nữ một trái tim hoàn chỉnh nhưng lại quên mất cho họ một đôi vai mạnh mẽ.
Cát Niên kê gối xuống đầu Phi Minh, dém chăn cho cô bé, nhìn cô bé dần thở đều rồi mới nhẹ nhàng ra khỏi phòng khép cửa lại. Vừa quay người đã thình lình đối diện ngay với Hàn Thuật không biết đã theo sau cô từ lúc nào, vô duyên vô cớ giật nảy mình.
Hàn Thuật bèn cười giễu: “Sao em ở nhà mình mà vẫn còn cái bộ dạng thỏ bị chó đuổi thế hả?” Anh nói xong mới cảm giác câu này dường như có gì không đúng, có vẻ như còn vơ vào thêm cả mình, nhưng lúc này tâm trạng anh đang vui cũng chẳng hơi đâu đi so đo mấy tiểu tiết ấy.
“Cảm ơn anh.” Cát Niên đột nhiên nói.
“Hả?” Hàn Thuật nhất thời ngây người chưa kịp phản ứng lại, không biết cô nói cảm ơn rốt cuộc là vì chuyện gì, may là não bộ anh vẫn còn có thể hoạt động, liên hệ đến lô gic nhất quán của cô, rồi ngẫm lại mới hiểu ra chắc đến tám chín phần là cô đang cảm ơn anh vừa nãy chủ động gánh vác trách nhiệm “công nhân vận tải”.
“Cái đấy có gì mà phải cảm ơn, con bé có nặng là mấy.” Hàn Thuật thản nhiên cười nói.
“Không… ờ… không chỉ việc đó, tối nay Phi Minh, con bé đã rất vui, em rất cảm ơn anh.”
Hàn Thuật vốn định nói: “Nói mấy thứ này làm gì, em cho anh ở lại ăn cơm anh còn chưa cảm ơn em đây.” Nhưng anh đột nhiên ngửi thấy mùi khách sáo và thận trọng rõ mồn một trong câu nói của Cát Niên, điều này khiến con người có trái tim còn đang mê mải trong niềm vui đột ngột nảy sinh vài phần cảnh giác.
Hàn Thuật thích Cát Niên cười, thích vẻ lẳng lặng không biết làm sao khi tức của cô, thích cô thỉnh thoảng rối mù chẳng ra đâu vào đâu, thích cô lạnh nhạt làm anh tức gần chết, thích cô cuối cùng cũng không kìm nổi mà bật khóc trước mặt anh, thậm chí thích cả kiểu thỉnh thoảng cô hận anh, anh thừa nhận mình có xu hướng ngược đãi bản thân, nhưng những điều ấy khiến anh cảm thấy mình không phải người ngoài, đồng thời giúp anh thấy mình và Cát Niên đang bằng xương bằng thịt tồn tại trên cùng một nhân gian. Anh sợ nhất là gì? Là vẻ thờ ơ của cô như thể đã tha thứ cho anh, và cả thứ khách sáo cẩn trọng mà xa lạ ngay trước mắt, dường như chỉ một câu nói, một ánh mắt nhìn đã có thể vạch rõ ranh giới núi Nam biển Bắc với anh.
Vừa rồi không phải vẫn ổn sao? Hàn Thuật thoáng có cảm giác thất bại, như thể trải qua một chặng đường dài leo núi tuyết, vượt thảo nguyên, cứ ngỡ đã được ngàn sông vạn núi, quay đầu nhìn lại mới biết vẫn chỉ đang quanh quẩn trong sân sau.
Quả nhiên, cô nói câu cảm ơn xong liền bắt đầu vòng vo diễn vẻ lãnh đạm. Cô cố ý nhìn chiếc đồng hồ cũ kỹ treo trên tường rồi nói: “Ấy, đã muộn thế này rồi. Đúng rồi, anh vẫn còn phải tìm một nơi nghỉ chân phải không?”
Hàn Thuật phẫn nộ, con người này, chỗ cô đứng thậm chí còn chẳng nhìn nổi cái kim của chiếc đồng hồ ôn dịch ấy. Anh kìm cơn giận, lườm cô mấy cái rồi bực bội nói: “Anh không phải loại không có mắt, không cần đuổi cũng sẽ đi.”
Cát Niên cúi đầu, Hàn Thuật chỉ thấy hai vành tai cô lúng túng đỏ ửng, anh im lặng một hồi rồi phăm phăm đi tìm chiếc vali khổng lồ của mình. Bộ dạng lập tức thở phào nhẹ nhõm của Cát Niên khi anh thực sự cầm đến tay nắm vali càng khiến cơn tức của anh bốc lên bừng bừng, bực hơn nữa là cô vẫn không quên lịch sự nói: “Để em tiễn anh.”
Trước mũi công kích thế này, Hàn Thuật dứt khoát không buồn miễn cưỡng xã giao với cô nữa, sự đáng ghét của cô đã tiếp thêm dũng khí cho tính càn rỡ của anh, kéo vali định đi gì gì đó đều là giả cả, nói thật, hôm nay đặt chân vào căn nhà này anh vốn đã không có ý định bước ra.
Hàn Thuật buông tay, vẻ hùng hổ phăm phăm khi nãy đã biến thành mặt trơ mày tráo, hệt như màn đổi mặt trong kịch Tứ Xuyên.
“Anh thật không có chỗ nào để đi nữa.”
Cát Niên không ngờ anh lại nuốt lời nhanh đến vậy, nhưng cô cũng đã có dự cảm anh sẽ diễn màn này nên mới mở lời trước bày ra cảnh vừa rồi, hy vọng anh sẽ hiểu ý mà tự động ra về. Cô không thể nào giữ Hàn Thuật ở lại qua đêm ở đây. Bất kể suy xét trên phương diện nào, về tình về lý đều không nên, cô vốn trông đợi một người ưa thể diện như Hàn Thuật sẽ không chịu nổi những lời bóng gió mà quay người đi thẳng, nào ngờ anh càn rỡ lên lại chẳng màng điều gì.
“Hàn Thuật, không phải em cố ý gây khó dễ gì anh, anh đừng làm khó em được không?” Cát Niên kiềm chế nói.
Hàn Thuật cũng ra vẻ giảng đạo lý, “Đứng trước mặt em lúc này là một người không nhà để về, giờ này khách sạn tốt không biết chừng đã chật kín phòng rồi, đêm 30 em lại nỡ để anh lưu lạc đầu đường xó chợ hay sao?”
“Em rất thông cảm với anh, nhưng em không còn cách nào, anh ở đây thì còn ra thể thống gì nữa?”
Hàn Thuật vờ như không nghe thấy, cô chỉ suýt không nói anh lưu lạc đầu đường xó chợ là việc của anh, tôi không quan tâm. Hàn Thuật cũng không phải không hiểu muốn cô nhượng bộ cho mình ở lại là cực kỳ khó, với tính cách của cô, dù có đổi lại là anh chàng Đường Nghiệp hiện đang trong thời gian “nồng thắm” cũng khó mà đạt được ước nguyện. Nhưng Hàn Thuật nghĩ, thế thì đã sao, anh chẳng phải loại người nói một câu cũng phải suy đi tính lại như Đường Nghiệp, anh trơ tráo không biết nhục cũng là nhờ cô mài dũa mà thành.
“Sao mà không có cách nào, em chỉ cần cho anh ở nhờ một thời gian, cũng không cần lâu, qua Tết anh sẽ ra ngoài tìm cách. Cứ coi như là phát thiện từ bi đi, cứu lấy một người đáng thương.”
Cơn tức của Hàn Thuật bốc lên, anh không kìm nổi giọng chanh chua cay nghiệt: “Chẳng trách thượng đế không cứu nổi em, vì em trước sau vẫn không chịu tự cứu lấy mình, em cho rằng mình em chết già trong cái mộ sống này là vui à? Em quá cần chút hơi người rồi đấy, thật thế, không chỉ mình em đâu, cả cái căn nhà này nữa.” Tiếp đó anh tuyên bố: “Dù gì anh cũng không đi!”
Cát Niên rõ ràng cũng bị câu nói của anh làm cho tức đến không im lặng nổi nữa, anh ta lại vẫn ra cái điệu bộ kẻ cứu vớt ấy.
“Anh thế này là có ý gì đây?”
“Dù gì anh cũng không đi!” Hàn Thuật ngồi lên chiếc vali của mình, thế nào cũng chỉ một câu nói này. Anh đang đánh cược cô không có khí phách động chân động tay mà đuổi anh.
Quả nhiên, Cát Niên lãnh đạm đứng đờ ra hồi lâu, không biết làm sao cuối cùng đành từ bỏ việc đôi co với anh, lẳng lặng quay đầu đi vào phòng đóng cửa lại. Cô tự biết không làm gì nổi anh, đã không đuổi được lẽ nào lại không trốn được, bèn dứt khoát chui vào cái mai của mình.
Hàn Thuật lập tức mừng thầm, nhìn thái độ bỏ đi cho khuất mắt của cô xem ra ý nguyện của anh đã thành công rồi. Anh hí hửng để chiếc vali vào vị trí cũ, lại nhớ đến buổi trưa xui xẻo bị ông cụ đuổi khỏi nhà, sâu sắc cảm nhận lời cổ nhân nói chỉ có đúng, thật là “trong phúc có họa, trong họa có phúc”, chỉ mới một ngày trước thôi, anh có nằm mơ cũng không dám nghĩ có ngày được ở cùng cô dưới một mái nhà.
Anh dạo một vòng quanh phòng khách trống không, niềm hân hoan còn chưa kịp qua, hiện thực khách quan đã đột nhiên bày ra trước mắt, đó chính là, tối nay anh biết ngủ ở đâu?
Nơi Cát Niên sống đơn giản hệt chốn tu hành của tăng ni khổ hạnh, căn nhà chỉ có hai gian phòng chia đều cho cô và Phi Minh, cái gọi là phòng khách chỉ là “căn hầm lạnh” với bốn bức tường bao quanh, ngay đến một chiếc ghế sofa dài cũng không có, vị trí thoải mái nhất có chăng chỉ là chiếc ghế dựa bằng tre Phi Minh ngồi lúc trước.
Hàn Thuật là người có đánh chết cũng không chịu ngủ dưới nền nhà, anh thừa nhận không tìm nổi chỗ nào tốt hơn để nương thân, chỉ có thể chọn chiếc ghế tre đó, chăn đệm là chuyện không tưởng nhưng đây chính là lúc phát huy công năng của chiếc ga trải giường lúc nào cũng sẵn có trong vali. Hàn Thuật trải ga lên ghế rồi nằm xuống, Phi Minh có thể nằm gọn trên ghế, nhưng với chiều cao của mình, anh chỉ còn nước đặt hai chân xuống đất. Anh cởi áo khoác, lấy phần ga còn thừa bọc lấy cơ thể, bên ngoài đắp chiếc áo khoác dày sụ rồi cứ vậy mà định chìm vào giấc ngủ. Tạ Cát Niên có thể mặc kệ anh ở ngoài tự sinh tự diệt chẳng qua là trù định anh không có nổi cách nương thân, anh càng phải cho cô thấy, anh đầy cách, đại trượng phu biết co biết duỗi, hà cớ gì không thể an thân lập mệnh.
Nói thì nói vậy nhưng chỉ sau mười lăm phút chật vật trên chiếc ghế tre, anh mới biết kiểu một co một duỗi này quả thật khó chịu. Từ nhỏ Hàn Thuật chưa từng phải chịu khổ, hồi còn đi học một lần duy nhất anh tham gia trại hè dã ngoại dựng lều ở vùng ngoại ô, mẹ anh còn đi suốt đêm cùng tài xế đem chăn đệm đến cho anh, tuy miệng trách mẹ lo hão nhưng tối đó cảm giác ôm chăn nhà mình thoải mái hơn so với mền dạ trong lều trại ra sao anh cũng đủ hiểu. Chiếc ghế tre nhà Cát Niên mùa hè có thể coi là mát mẻ, còn trong đêm đông thế này thì phải nói là rất lạnh, lại thêm chiếc ga mỏng không những không mang đến hơi ấm mà ngay đến mấy chỗ lồi trên ghế cũng không che nổi, cộm lên khiến anh rất khó chịu.
Thế là “hoàng tử hạt đậu” vừa tuyên bố những lời hào sảng kết quả lại trằn trọc mất ngủ trên chiếc ghế tre, chỉ cảm thấy dưới người không có nổi một đốt bằng phẳng, hai chân duỗi cũng khó chịu mà co lại càng xót xa. Khó chịu hơn cả là khí lạnh buổi đêm trong căn nhà cũ nào che chắn được chỉ bẳng một mảnh ga với chiếc áo khoác che đầu thì hở chân. Người vừa thiu thiu ngủ, luồng gió lạnh đã như con rắn độc ác len lên từ lòng bàn chân, xông thẳng vào lục phủ ngũ tạng.
Hàn Thuật càng co lại càng thiếu, anh vật lộn hồi lâu khó khăn lắm mới mơ mơ màng màng liền rơi vào một trạng thái giữa mơ và ảo giác. Dường như anh đang lạc đường trong một vùng băng tuyết trắng xóa, hơi vừa thở ra là thành băng, máu cũng sắp đông cứng lại, không biết đã đi được bao lâu. Đáng sợ nhất là thế giới băng tuyết này không biết đâu là đầu đâu là cuối, vết chân in trên tuyết cũng bị phủ lấp, đi không được mà quay lại cũng không xong.
Cuối cùng, có một người ngồi xe trượt tuyết đến bên anh, bà Chúa Tuyết đó chẳng phải là Cát Niên hay sao? Hàn Thuật như nhìn thấy cứu tinh, vội vàng nói: “Cứu anh với, anh lạnh.”
Bà Chúa Tuyết lại nói: “Chỉ có thể trách ngươi mà thôi, ngươi không nên đặt chân đến thế giới của chúng ta.”
Hàn Thuật thấy nghi hoặc, “chúng ta” ở đâu ra, chỗ này rõ ràng chỉ có anh và cô.
Nhưng cũng đúng lúc ấy, gương mặt Hàn Thuật ra sức muốn quên nhất lại mờ ảo hiện ra trước mắt anh, người thanh niên gầy gò ốm yếu mặc áo trắng không biết từ bao giờ đã xuất hiện bên cạnh Cát Niên. Bọn họ nhìn nhau cười, hai tay đan vào nhau.
Hàn Thuật như bị một trận bão tuyết điên cuồng phủ lấp, rùng mình tỉnh dậy, hình ảnh cuối cùng còn lưu giữ được trong đầu là ánh mắt lạnh như băng sương vạn cổ của Cát Niên. Anh lồm cồm bò dậy, lật tung vali lấy ra mọi thứ có thể chống rét, đắp hết lượt lên người nhưng vẫn không có tác dụng, chỉ càng thấy lạnh, giấc mơ khi nãy đã khiến anh lạnh buốt tim. Thiếp ngủ lần nữa trở thành một tham vọng xa xỉ, mí mắt anh trĩu xuống, ý thức hỗn độn nhưng người lại rất tỉnh, mỗi lần trở mình chiếc ghế tre lại kêu cót ca cót két. Thỉnh thoảng có tiếng pháo nổ, lại cả tiếng đồng hồ cũ kỹ trên tường, tích tắc tích tắc, tích tắc tích tắc, giục người ta nảy sinh tà tâm.
Đến lúc chút nhẫn nại cuối cùng cũng tiêu tan, Hàn Thuật tung chân đạp hết đống quần áo đang đắp trên người, lết đôi chân tập tễnh vì tê đi gõ cửa phòng Cát Niên.
Hàn Thuật trong lòng vốn đang bực bội, đương nhiên hạ thủ có chút không kiêng dè, nói là đập cửa cũng không quá đáng, nhưng anh hoàn toàn không ngờ bao năm Cát Niên chỉ sống cùng Phi Minh, căn nhà này chẳng có ai khác, chốt cửa phòng cô lỏng lẻo đến ngỡ ngàng, hoàn toàn chỉ là thứ đồ chơi của chủ nghĩa hình thức. Trên thực tế, ngay từ lúc đốt ngón tay đầu tiên của anh chạm vào cánh cửa, chiếc chốt bên trong đã phát ra một tiếng động rất kỳ quái, sau đó cửa liền hé mở.
Tiếng động này ắt hẳn đã làm kinh động đến người trong phòng là Cát Niên. Cô đang nằm trên giường, vốn đã ngủ không yên, nghe thấy tiếng động liền sợ đến nỗi gần như ngồi phắt dậy, phản ứng đầu tiên là đi kéo chiếc đèn đầu giường.
Công tắc chiếc đèn vẫn giữ theo kiểu sơ khai, phải kéo sợi dây để bật đèn. Cát Niên đã quá quen với vị trí của sợi dây, dù ở trong bóng tối cũng có thể lần mò được nó, ai ngờ cô vốn đang có tâm tư trong lòng, lần này lại bị Hàn Thuật dọa chết khiếp, dùng lực cũng mạnh hơn chút ít, sợi dây công tắc tuổi đời đã lâu kêu phựt một tiếng rồi đứt luôn. Trong tay Cát Niên vẫn còn nắm nửa sợi dây, cô thầm kêu khổ, cơ thể cũng bất giác rụt lại phía sau.
Thề với trời đất, ban đầu Hàn Thuật chẳng qua chỉ muốn “gõ” cửa xong hỏi xin Cát Niên một tấm chăn chống rét, thuận miệng nói chuyện với cô vài câu, thật chỉ thế mà thôi. Nhưng tình cảnh hỗn loạn tiếp theo này đã hoàn toàn không nằm trong tầm kiểm soát của anh, cảnh tượng này thật có nhảy xuống sông Hoàng Hà cũng không rửa sạch tội, đừng nói là cô, ngay đến Hàn Thuật cũng tự thấy mình hệt tên côn đồ giữa đêm phá cửa vào phòng người ta.
Trong phòng tối om om, Hàn Thuật mất một lúc mới dần thích ứng được một chút.
“Anh… anh định làm gì?” Bộ dáng rúm ró túm sợi dây thừng của Cát Niên khiến Hàn Thuật hơi buồn cười, dường như nếu thật có xảy ra chuyện gì thì chiếc dây thừng đó sẽ trở thành chiếc phao cứu mạng của cô vậy. Dù không nhìn rõ mặt cô nhưng Hàn Thuật vẫn có thể đọc được sự hoảng hốt cô giấu trong bóng đêm.
“Anh sắp chết rét đây!” Hàn Thuật bước lên mấy bước, bực bội nói.
Dường như qua tiếng nói lúc này, Cát Niên mới hoàn toàn xác định bóng người ngược sáng kia đích thực là Hàn Thuật, nhưng xác định rồi cũng chẳng khiến cô an tâm hơn chút nào.
“Cái gì….” Cô hỏi giọng run run, rõ ràng vẫn chưa hoàn toàn định thần lại.
“Còn không đưa chăn đưa gối đây, sáng mai em cứ đợi mà nhặt xác anh.” Hàn Thuật nhắc nhở.
“Chăn á?” Lúc này coi như cô cũng đã hiểu chút ít, nhưng tâm tư vẫn đặt lên chiếc công tắc đèn đầu giường, cô nhỏm người dậy, đưa tay mò mò xem đoạn dây bị đứt nằm ở chỗ nào để khôi phục ánh sáng trong gian phòng hòng mong tránh thú dữ. Phải đối diện trong không gian chật hẹp tối om, cô chợt lo sợ một cách bản năng. Cô lần mò rất lâu, cuối cùng vẫn phải chấp nhận hiện thực chiếc dây thừng đã hoàn toàn đứt ngay điểm tiếp xúc.
“Trong nhà không có chăn thừa, chăn thừa em đều mang vào bệnh viên rồi… Đã nói anh không thể qua đêm ở đây mà, anh vào đây làm gì?” Cô quờ quạng bò dậy định xuống giường.
Phòng cô không lớn, Hàn Thuật từ cửa đi vào mấy bước đã đến cuối giường. Anh nhìn chiếc chăn cô đang ôm liền thấy bừng bừng bất bình, anh lạnh đến sắp chết đi được mà cô lại ấm áp ngủ một giấc đẫy trong chăn. Anh hằm hằm kéo một góc chăn của cô, vừa càn quấy vừa giận dỗi nói: “Thế thì em chia nửa chăn cho anh.”
Cát Niên đang lần mò để xuống giường, Hàn Thuật kéo mạnh chăn một cái vô tình làm vướng vào cô, cô ngã bệt xuống giường, kêu khẽ một tiếng.
Vẻ kinh hoàng lộ rõ trên mặt Cát Niên khiến Hàn Thuật vốn chỉ dựa vào ý thức mơ hồ tới bên giường cô cuối cùng cũng cảm thấy có chút khó xử.
Anh miệng nói: “Anh chỉ muốn lấy chăn thôi, thật sự không có ý nghĩ gì bất chính.” nhưng tay vẫn cố sống cố chết nắm chặt một góc chiếc chăn duy nhất.
Hàn Thuật là một người trưởng thành, vì vậy anh nhanh chóng nhận ra điều này nửa là bởi anh, nửa là bởi bóng tối và hơi thở mơ hồ ấm áp mà hỗn loạn, hơi thở ấy như cây anh túc, cùng với những xấu xa trong tim anh, từng chút một hối thúc đóa hoa nguy hiểm chết người hé nở.
Không hiểu vì sao anh lại bắt đầu ngồi xuống mép giường, cổ họng nghẹn cứng, rì rầm hỏi như nói mê: “Em sợ anh đến thế sao?”
Anh thậm chí còn không ý thức được bàn tay mình đã đưa ra, chạm nhẹ vào mặt cô trong bóng tối. Lúc tỉnh táo anh không dám làm như vậy, nhưng lúc này anh có tỉnh táo không? Lúc tỉnh táo anh liệu có thể gần sát cô như thế này? Anh thậm chí không biết cuộc gặp tình cờ ở xứ sở băng tuyết khi nãy và cảnh ngay trước mắt này, trước sau đều như “Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp”, đâu là mơ, đâu là thực.