“Hôm kia tôi nhận được báo cáo chị Ngân đã bị địch bắt, có thể đang ở lăng Vua Ma.
Tôi muốn đích thân cứu chị ấy.”
Phạm Minh Hằng nói luôn, giọng đầy quả quyết, vẻ mặt nghiêm trang.
Điền Quý thầm nghĩ:
“Cô ta xử lý chuyện sương trắng rất chuyên nghiệp, có lẽ sẽ không giấu diếm chút chuyện riêng vào lúc này đâu.”
Phạm Minh Hằng nói tiếp:
“Chị Ngân hơn tôi hai tuổi, từ cấp một đến đại học đều học cùng nhau, gần như chị em ruột thịt.
Giờ cậu hiểu tại sao tôi muốn đi cứu chị ấy chưa?”
Điền Quý gật đầu, nói:
“Xem ra là đến lượt tôi rồi.
Cô tập võ hiện đại, chắc là ít nghe đến cái gọi là kinh lạc và khí công đúng không?”
“Có nghe qua.”
“Nói cho tôi nghe thử những gì cô biết xem.”
Phạm Minh Hằng gật đầu, nói:
“Kinh lạc là đường đi của khí, nhưng khí trong khí công lại không phải là không khí, tạm gọi là chân khí.
Người ta bảo không khí hút vào, đến ngực sẽ dừng lại rồi phải đẩy ra lại.
Còn chân khí hít vào sẽ xuống bụng, rồi theo kinh mạch lan ra khắp toàn thân.
Thế nhưng giải phẫu xác người lại không phát hiện các kinh lạc, cái gọi là khí ấm xuống bụng lan khắp toàn thân cũng cực kì mơ hồ, nói khó nghe một câu thì khéo là người xưa lạc hậu nên bịa ra ấy.”
Vũ Phạm Long bỗng dậm chân một cái, nói:
“Từ xưa đến nay chiến tranh không chỉ vài lần, số người chết đếm bao nhiêu cho xuể? Trên chiến trường đao kiếm không có mắt, có chém nhau đứt tay gãy chân, lòi ruột vỡ bụng cũng chả có gì mà lạ.
Cô tưởng cái vụ mổ xẻ này mới xảy ra gần đây à? Đừng tự dát vàng lên mặt mình thế!”
Cái dậm chân của y khiến cả toa tàu lung lay, nghiêng trái nghiêng phải một lúc mới vững vàng lại được.
Phạm Minh Hằng giật mình, ngã sang, tí thì dập mặt xuống lối đi.
Cô nàng vội vàng ngồi thẳng lại, nghiêm trang như học sinh tiểu học, không dám tỏ thái độ gì cả.
Điền Quý bèn nói:
“Từ xa xưa người phát hiện, kinh mạch thực chất không nằm trong thân xác, mà là thứ thuộc về hồn phách, không có thực thể, Còn bản thân chân khí, có lẽ là cách mà linh hồn hô hấp, cũng như cô hít khí ô xi, thở ra các bô níc vậy.
Còn rốt cuộc hồn phách hít cái gì vào thì chịu thua.”
Anh chàng ngừng một chốc, để Phạm Minh Hằng tiếp thu hết những gì vừa nghe, rồi tiếp:
“Cơ thể dùng ô xy để tạo ra năng lượng mà hoạt động, có lẽ quá trình hô hấp của hồn phách cũng thế.
Khác biệt là, thứ năng lượng này có thể tác động đến những vật thuộc về cõi âm.
Thế nên mới có võ để đánh người, và võ để đánh quỷ.”
Vũ Phạm Long nghe đến đây thì cười phá lên, chống nạnh nói:
“Còn như anh đây thì luyện cả hai, người hay ma quỷ tao đều đấm được cả.”
“Cô cứ kệ hắn đi.
Đầu óc hắn không được bình thường ấy mà.”
Điền Quý ném cho hắn một ánh mắt đầy khinh thường, rồi nói với Phạm Minh Hằng.
Cô nàng gật gù, đoạn bảo:
“Thảo nào cứ hở tí là cười khành khạch như thằng bệnh.”
Điền Quý đi dọc toa tàu, phát hiện tất cả nhân viên đều đang ở chung một toa.
Vừa thấy anh chàng đi đến, lái tàu đã đi đến, hỏi:
“Mọi người đã nói chuyện xong xuôi rồi à?”
Anh chàng bảo:
“Không có thời gian để giải thích, mỗi người cầm một lá bùa này rồi ở yên đây chờ tôi, đừng có đi đâu cả.
Sắp tới bọn tôi sẽ vào tiến vào màn sương, không thể ở đây lo cho mọi người.
Đồ ăn thức uống chắc trên tàu vẫn còn, mọi nguòi dựa vào đấy cầm cự cho đến khi bọn tôi quay lại.
Đừng tự ý quay tàu về tỉnh A, bằng không tôi không thể cứu nổi đâu.”
Phân phát bùa xong, Điền Quý mới về toa tàu cũ, nơi Vũ Phạm Long và Phạm Minh Hằng đang chờ sẵn.
Ở yên một chỗ không phải là cách phá cục.
Ba người bọn Điền Quý bàn bạc với nhau, quyết định mạo hiểm xuống tàu, đi vào thị trấn một phen xem sao.
Cửa toa tàu chậm rãi mở ra, sương trắng âm u tràn vào, khiến người ta thấy lành lạnh.
Cái rét mướt của vùng sơn cước tháng chạp chậm rãi bao phủ lấy cả ba người bọn Điền Quý.
Cả ba nhìn nhau một cái, sau đó đồng thời bước chân ra, xuống tàu.
“Hă...!hắt xì!”
Điền Quý khụt khịt mũi, lấy ra một lá bùa chống lạnh dán vào lưng.
Anh chàng lại chợt nhớ đến lần đánh nhau với Vân Kiếm ở ngôi nhà trên đồi hoa sim, bèn lấy thêm một lá bùa khác, dán vào trước ngực.
Nếu Trịnh Thanh Loan cũng có mặt ở thị trấn A thì lớp sương mù này chẳng khác nào chiến trường hoàn hảo cho con ả cả.
Đã nếm mùi nội tạng bị cắt xé từ trong ra ngoài một lần, Điền Quý không muốn lại phải chịu cái cảm giác ấy.
Con đường này, tuy không bí bách như lối vào quán gà của Bắc, nhưng bốn bề sương trắng che phủ, giơ tay không thấy nổi năm ngón, hai người Phạm Minh Hằng Vũ Phạm Long đi bên cạnh cũng không thấy tăm hơi đâu cả.
So với bốn bức tường chật hẹp, biết xung quanh là khoảng không ngút tầm mắt bị sương trắng che đậy càng khiến Điền Quý thấy bất an hơn.
Nhẩm trong đầu thấy đã được khoảng hai phút, anh chàng bèn án theo đúng những gì đã bàn với hai người kia, cao giọng nói:
“Ê! Còn đấy không?”
Điền Quý đứng lại, chờ đúng nửa phút.
Không có tiếng đáp lại.
Phải hơn một phút sau, thì mới có một giọng nữ cất lên:
“Ở đây!”
Tuy đúng là giọng của Phạm Minh Hằng, nhưng âm thanh nghe rất quái lạ, như tiếng hét trong động đá, dội vào vách hang mà đến chứ không phải cất lên ở một ga tàu hỏa.
Điền Quý chặc lưỡi, không đi tìm người nữa mà chọn bừa một hướng, tiếp tục mò mẫm trong lớp sương dày đặc.
Vừa đi, anh chàng vừa nghĩ bụng:
“Tên Vũ Phạm Long kia có biết tàu sẽ đến đất của người chết không nhỉ?”
Điền Quý đòi Vũ Phạm Long đi theo, vốn là muốn giám sát hắn.
Thế nhưng mảnh đất chết quái dị này đã khiến ba người bọn họ bị tách nhau ra, thành thử tính toán của anh chàng xôi hỏng bỏng không cả.
Bây giờ Vũ Phạm Long đã có một cái cớ hoàn hảo để “biến mất”, đổi một thân phận khác xuất hiện trước mặt Điền Quý.
Anh chàng đi bừa một lúc, chẳng biết là bao lâu thì lớp sương mù bắt đầu tan dần.
Lác đác đã có thể thấy những nóc nhà hiện lên đằng xa, mùi khói bếp lãng đãng truyền tới.
Thấp thoáng phía trước, lũy tre làng chòi ra những cành lá đầu tiên khỏi biển sương mù, báo hiệu rằng thôn xóm đã ở cách đây không xa.
Điền Quý định thần nhìn kỹ, thì phát hiện mình đã đi đến một cái cổng làng từ bao giờ.
Anh chàng ngước lên, thấy trên cổng đá ghi tên làng bằng chữ Hán là Vân Tụ, không khỏi có điều suy nghĩ.
Thế rồi, Điền Quý lại nhún vai, lững thững bước vào làng.
Làng Vân Tụ không to gì cho lắm, chỉ có hai xóm nhỏ, tính ra được khoảng hơn chục mái nhà, nhân khẩu không đến trăm người.
Bấy giờ, sân vườn nhà nào cũng có cảnh người già bưng mâm cơm đặt trên chõng, ấm nước chè tươi đặt bên võng chăng giữa hai cột nhà.
Có cái quạt mo cau treo lơ lửng ngay trên đầu, vừa tầm tay người gỡ xuống.
Điền Quý dạo khắp làng một vòng, phát hiện trong làng hầu như chỉ có người già với trẻ nhỏ, chẳng có thanh niên trai tráng gì cả.
Khung cảnh đúng như một ngôi làng thời chiến tranh, thanh niên đều ra trận cả, ở lại làng xưa chỉ có mẹ già con thơ.
Duy chỉ có một ngôi nhà khang trang xây ở gần đình làng là còn có chút sức trẻ.
Bấy giờ, người trong nhà đang làm một đám cỗ, cả tam đại đồng đường đều tề tựu gần như đông đủ không thiếu một ai.
Cánh chị em thì hí húi đồ xôi, nấu nướng.
Đám mày râu thì hì hụi bưng ghế bê bàn, mổ gà, giết lợn.
Cảnh nhộn nhịp như Tết đến ở ngôi nhà trái ngược hoàn toàn ngôi làng u ám, già cỗi nơi đây.
Thế là nơi náo nhiệt thì càng náo nhiệt, chốn tiêu điều thì càng tiêu điều.
Điền Quý hắng giọng, đẩy cửa đi vào căn nhà to.
Những người đang làm việc dở tay đều ngừng cả lại, không ai nói một lời nào cả.
Hàng chục con người cứ đờ ra mà nhìn về phía Điền Quý ánh nhìn lộ rõ vẻ nghi hoặc.
Mấy bà cô nói léo nhéo vài câu từ bếp ra, bằng một thứ ngôn ngữ mà anh chàng nghe không hiểu.
Sau đó, một gã trung niên râu rậm mày to, trông có vẻ hổ báo bặm trợn bỏ con lợn vẫn đang giãy dưới nền gạch, đứng lên lững thững đi ra cổng nhà.
Lão ta cứ lừng lững sấn từng bước, đi phăm phăm đến trước mặt Điền Quý như không thấy gì.
Anh chàng cũng đang muốn thử xem cái ngôi làng kỳ quặc này rốt cuộc còn bao nhiêu trò, nên chẳng thèm né mà cứ đứng như trời trồng giữa sân, chờ gã.
Tay trung niên bặm trợn vừa bước đến trước mặt anh chàng thì người lão bỗng mờ đi, sau đó nhẹ nhàng đi xuyên qua người Điền Quý.
Anh chàng tức khắc thấy rùng mình, sống lưng ớn lạnh run lên.
Biết là có điều không ổn, Điền Quý bèn lui nhanh ra khỏi căn nhà.
May mà tay trung niên đó không đi nhanh, cửa của căn nhà này lại làm rất rộng nên phải khép từng cái một.
Điền Quý lách được ra ngoài, chỉ thấy khoảng sân bỗng sáng rực lên, giống như đồng thời có hàng chục ngọn đuốc cùng cháy.
Cái thứ ánh sáng dị thường ấy tràn ra, khiến đôi mắt Điền Quý đau như bị kim châm vào.
Anh chàng ôm mặt, đôi má có hai dòng nước ấm chảy xuống, dùng lưỡi nếm mới biết là máu.
Hai cánh cửa bằng gỗ dày cộp của ngôi nhà lớn ở làng Vân Tụ đóng lại, hình ảnh cuối cùng mà Điền Quý thấy được là một tấm lưng.
Anh chàng vẫn nhớ lão trung niên bặm trợn ấy lùn, nhưng vạm vỡ, tay chân rắn rỏi lắm.
Còn cái bóng lưng hiện lên giữa khe hở của hai cánh cửa lại dong dỏng cao, còng vẹo xuống, trông như của người già bị phong thấp nhiều năm, yếu ớt và bệnh trạng.
Thịch!
Cánh cửa nặng nề đóng sầm lại.