Đế Quốc Nhật Bản

Chương 112: Chính sách thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế 2




Bộ Công thương sẽ thay thế NRA để để điều chỉnh các ngành công nghiệp cụ thể của đất nước. Tiếp theo chính là chính sách tiền tệ. Vào tháng 4 năm 1930, Machiko đã đưa Nhật Bản ra khỏi tiêu chuẩn vàng.

Đi ra khỏi tiêu chuẩn vàng cho phép Machiko theo đuổi các chính sách lạm phát, điều này sẽ làm cho hoạt động của các chương trình của NRA, cũng như xử lý nợ công và tư nhân, dễ dàng hơn. 3 năm sau, Roosevelt đã đưa Hoa Kỳ ra khỏi tiêu chuẩn vàng.

Cục dữ trữ cũng liên tục hỗ trợ Machiko trong vấn đề tài chính. Đồng thời, các mỏ vàng trực thuộc hoàng gia dẫn đầu phong trào trên cả nước đã và đang liên tục cung cấp vàng miễn phí cho Cục dự trữ để thoát khỏi cuộc khủng hoảng này.

Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Nhật Bản (SEC) được thành lập theo yêu cầu của Đạo luật Giao dịch Chứng. Mục đích chính của SEC là thực thi luật chống thao túng thị trường. SEC có bốn nhiệm vụ.

Đầu tiên và quan trọng nhất là khôi phục niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán, vốn thực tế đã sụp đổ vì nghi ngờ về tính toàn vẹn bên trong của nó, và các mối đe dọa bên ngoài do các thế lực thù địch gây ra.

Thứ hai, về mặt tính toàn vẹn, SEC đã phải loại bỏ những trò lừa đảo penny ante dựa trên thông tin sai lệch, thiết bị gian lận và các kế hoạch làm giàu nhanh chóng không lành mạnh.

Thứ ba, và quan trọng hơn nhiều so với các vụ gian lận, SEC đã phải chấm dứt các cuộc vận động nội bộ trị giá hàng triệu yên hoặc đô la trong các tập đoàn lớn, theo đó những người trong cuộc có quyền truy cập vào thông tin về tình trạng của công ty biết khi nào nên mua hoặc bán chứng khoán của chính họ.

Cuối cùng, SEC đã phải thiết lập một hệ thống đăng ký phức tạp cho tất cả các chứng khoán được bán ở Mỹ, với một bộ quy tắc và hướng dẫn rõ ràng mà mọi người phải tuân theo.

Tiếp theo là vấn đề nhà ở nhưng mà vấn đề này đã được Machiko và chính quyền của cô bỏ qua. Bởi vì, chính sách nhà ở đã được cải cách trước đó theo hiến pháp không có vấn đề gì để thay đổi cả.

Những ngành khác mặc dù đã được cải cách nhưng mà không có dựa theo hiến pháp mà vẫn giữ nguyên một số tình trạng trước đó. Cho đến khi, khủng hoảng thì mới bắt đầu thay thế những thứ trước đó bằng các bộ luật trong hiến pháp.

Trong những năm khủng hoảng tiếp theo, Machiko đã liên tục thiw hành những chính sách mới trong hiến pháp mà không được thi hành trước đó. Những chính sách kịp thời của Machiko đã và đang dần dần đưa Nhật Bản thoát khỏi cuộc khủng hoảng và dần trở mình một cách mạnh mẽ. Rất nhiều người phụ nữ Nhật Bản cũng đã bắt đầu đi làm theo khiến khích của chính phủ Nhật Bản.

Vào ngày 30 tháng 1 năm 1933, Adolf Hitler chính thức được tổng thống Đức là Hindenburg bổ nhiệm làm thủ tướng Đức. Từ đây, nước Đức bắt đầu chuyển sang một trang sử mới. Chế độ phát xít bắt đầu từ đây lên nắm quyền nước Đức.

3 tháng sau đó.

Ngày 4 tháng 3 năm 1933, Franklin D. Roosevelt chính thức lên làm tổng thống thứ 32 của Hoa Kỳ. Hirohito sau khi biết chuyện này cũng là cho ông không biết nói gì hơn. Mặc dù, ông đang ở thế giới song song, nó khác với thế giới ông sống một chút nhưng mà có một phần lịch sử vẫn tiếp diễn theo thế giới mà ông từng sống.

Hiện tại, đã có 3 trong tổng số 4 người thuộc dạng những người làm thay đổi cục diện thế giới đã lên đài lãnh đạo đất nước, chỉ duy nhất có 1 người là chưa lên đài đó chính là Winston Churchill.

Hirohito tin tưởng rồi cũng nhanh thôi Winston Churchill cũng sẽ lên làm thủ tướng nước Anh. Có một việc khác làm cho ông bất ngờ chính là Adolf Hitler sau khi lên đài đã đến tìm ông nhưng mà ông đã không có ở Đức.

Adolf Hitler không gặp được Hirohito cảm thấy tiếc nuối. Adolf Hitler sau đó tới thành phố Hamburg, muốn tự mình tham quan hạm đội của Nhật Bản. Hirohito sau đó biết chuyện này và đồng ý cho Hitler tham quan từng chiếc chiến hạm trong hạm đội.


Ông còn dặn dò Nagumo lúc này đang ở hạm đội nghênh tiếp Hitler phải giới thiệu làm sao mà lái nhẹ qua tác dụng của hàng không mẫu hạm và làm giam đi tác dụng của thiết giáp hạm.

Hirohito biết Hitler là người chủ nghĩa đại pháo nên ông mới cho xây dựng nhiều thiết giáp hạm và tuần dương hạm nhưng mà chưa bao giờ xây dựng hàng không mẫu hạm.

Hàng không mẫu hạm Graf Zeppelin là chiếc duy nhất nhưng chưa được cho ra chiến trường thì được lệnh tháo dỡ từ Adolf Hitler sau khi thiết giáp hạm Bismarck bị đánh chìm.

Hirhito làm như vậy là cho biết tác dụng của hàng không mẫu hạm để Hitler xây dựng hàng không mẫu hạm làm tổn thương nặng hải quân Anh để cho Anh tập chung vào Châu Âu chiến đấu với hải quân Đức và Mỹ cũng sẽ gửi quân đến Anh hỗ trợ chống Đức.

Còn, Nhật Bản thì ở phía sau xem trò hay sẵn tiện đâm 1 đao vào thuộc địa của Anh ở khu vực Châu Á–Thái Bình Dương. Đến đây, Hirohito không muốn quan tâm tiếp nữa còn lại để cho Mazhiko lo, mình thì tiếp tục cuộc hành trình của mình.

Cuộc khủng hoảng đã lan sang tới toàn bộ Châu Âu nên Hirohito đi tới đâu đều sẽ nhìn một hồi và suy nghĩ kỹ mới mua kỹ thuật và máy móc tới đó. Cũng trong khoảng thời gian này, Nhật Bản đã tham gia 2 sự kiện của thế giới đó chính là Hiệp ước Hải quân Luân Đôn và Hội nghị cắt giảm và hạn chế vũ khí.

Hiệp ước Hải quân Luân Đôn, chính thức là Hiệp ước hạn chế và giảm vũ khí hải quân, là một thỏa thuận giữa Vương quốc Anh, Nhật Bản, Pháp, Ý và Hoa Kỳ được ký kết vào ngày 22 tháng 4 năm 1930.

Tìm cách giải quyết các vấn đề không được đề cập trong Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922, đã tạo ra giới hạn trọng tải cho tàu chiến mặt nước của mỗi quốc gia, thỏa thuận mới quy định chiến tranh tàu ngầm, kiểm soát thêm tàu tuần dương và tàu khu trục, và đóng tàu hải quân hạn chế.

Việc phê chuẩn đã được trao đổi tại Luân Đôn vào ngày 27 tháng 10 năm 1930, và hiệp ước có hiệu lực cùng ngày, nhưng phần lớn không hiệu quả.

Số lượng tàu tuần dương hạng nặng bị hạn chế sau khi đàm phán: Anh được phép 18 tàu, Mỹ 20 tàu, và Nhật Bản 16 tàu. Hiệp ước cũng thiết lập một sự khác biệt giữa các tàu tuần dương được trang bị súng lên đến 6,1 in ( 155 mm ) ( " tàu tuần dương hạng nhẹ " theo cách nói không chính thức) với những tàu có súng lên đến 8 in ( 203 mm ) ( " tàu tuần dương hạng nặng " ).

Trọng tải tàu khu trục cũng bị hạn chế, với các tàu khu trục được xác định là tàu dưới 1.850 tấn và pháo lên tới 5,1 in (130 mm). Người Mỹ và người Anh được phép lên tới 150.000 tấn và Nhật Bản 105.500 tấn.

Các tàu có trọng tải từ 600 đến 2.000 tấn, với pháo không quá 6 in (152 mm) với tối đa bốn giá treo pháo trên 3 in (76 mm) không có vũ khí ngư lôi và lên đến 20 kn (37 km / h), được miễn giới hạn trọng tải.

Các tàu chiến dưới 600 tấn cũng được miễn trừ hoàn toàn.

Hội nghị cắt giảm và hạn chế vũ khí, thường được gọi là Hội nghị Geneva hoặc Hội nghị Giải trừ quân bị Thế giới, là một hội nghị quốc tế của các quốc gia được tổ chức tại Geneva, Thụy Sĩ, từ tháng 2 năm 1932 đến tháng 11 năm 1934 để hoàn thành giải trừ quân bị theo Công ước của Hội Quốc Liên.

Nó có sự tham dự của 31 quốc gia, hầu hết trong số đó là thành viên của Hội Quốc Liên, nhưng Liên Xô và Hoa Kỳ cũng tham dự.

Hội nghị là một phản ứng đối với việc quân sự hóa các cường quốc toàn cầu trong và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhằm mục đích cắt giảm vũ khí toàn cầu, hội nghị được tổ chức và vận động bởi Hội Quốc Liên với mục tiêu chính là tránh một cuộc chiến tranh thế giới khác.

Hội nghị Geneva có sự tham gia của tất cả các quốc gia ký kết Công ước Liên minh các quốc gia, bao gồm Vương quốc Anh, Pháp, Ý và Nhật Bản với tư cách là thành viên thường trực của Hội đồng Liên minh các quốc gia.

Nó bao gồm tất cả các đồng minh đã ký Hiệp ước Versailles với Đức và tất cả các quốc gia trung lập như Thụy Sĩ đã trao lợi ích đặc biệt trong việc giải trừ vũ khí ở châu Âu.

Công ước của Hội Quốc Liên định nghĩa vũ khí quốc gia là đề cập đến các lực lượng quân sự tổng quát bao gồm nhân sự, thiết bị, công nghệ, v.v. Hội nghị nhằm phân biệt giữa vũ khí tấn công và phòng thủ.

Các cuộc đàm phán tập trung chủ yếu vào vũ khí tấn công để ngăn chặn các cuộc tấn công trong tương lai, thay vì giảm vũ khí phòng thủ của các quốc gia. Tuy nhiên, các quốc gia thường không đồng ý về kỹ thuật của một số loại vũ khí nhất định.

Sir Basil Liddell Hart, một nhà sử học quân sự người Anh, người được biết đến phần lớn với chiến lược của mình xung quanh chiến tranh cơ khí, đã có mặt tại hội nghị.

Ông cho rằng xe tăng, một sự phát triển mới từ Chiến tranh thế giới thứ nhất, là cả vũ khí tấn công và phòng thủ và do đó không thể được phân loại là một trong hai.

Tuy nhiên, Winston Churchill không đồng ý bằng cách lập luận rằng khả năng tấn công của xe tăng là rất lớn và vượt xa bất kỳ khả năng phòng thủ nào. Sự hỗn loạn và không có khả năng đồng ý đã ngăn chặn sự tiến triển của hội nghị.