Luật bảo vệ lao động là an toàn lao động, vệ sinh lao động. Bởi vậy, trong nhiều trường hợp người ta dùng cụm từ "an toàn và vệ sinh lao động" để chỉ công tác Bảo hộ lao động.
Trong trường hợp nói đến Bảo hộ lao động, chúng ta hiểu đó là bao gồm cả an toàn lao động, vệ sinh lao động và cả những vấn đề về chính sách đối với người lao động như: vấn đề lao động và nghỉ ngơi, vấn đề lao động nữ, vấn đề bồi dưỡng độc hại.
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) "sức khỏe nghề nghiệp liên quan đến tất cả các khía cạnh của sức khỏe và an toàn tại nơi làm việc và tập trung mạnh vào việc phòng ngừa các mối nguy hiểm chính."
Sức khỏe đã được định nghĩa là "một trạng thái của hạnh phúc thể chất, tinh thần và xã hội hoàn toàn và không chỉ đơn thuần là sự vắng mặt của bệnh tật hoặc bệnh tật." Sức khỏe nghề nghiệp là một lĩnh vực chăm sóc sức khỏe đa ngành liên quan đến việc cho phép một cá nhân thực hiện nghề nghiệpcủa họ , theo cách gây hại ít nhất cho sức khỏe của họ.
Nó phù hợp với việc tăng cường sức khỏe và an toàn tại nơi làm việc, liên quan đến việc ngăn ngừa tác hại từ các mối nguy hiểm tại nơi làm việc.
Năm 1700, De Morbis Artificum Diatriba,đã phác thảo các mối nguy hiểm sức khỏe của hóa chất, bụi, kim loại, chuyển động lặp đi lặp lại hoặc bạo lực, tư thế kỳ lạ và các tác nhân gây bệnh khác mà công nhân gặp phải trong hơn năm mươi nghề nghiệp.
Tại Vương quốc Anh, Đạo luật Nhà máy đầu thế kỷ XIX (từ năm 1802 trở đi) phát sinh từ những lo ngại về sức khỏe kém của trẻ em làm việc trong các nhà máy bông: Đạo luật năm 1833 đã tạo ra một Thanh tra nhà máychuyên nghiệp chuyên nghiệp.
Nhiệm vụ ban đầu của Thanh tra là cảnh sát hạn chế giờ làm việc trong ngành dệt may của trẻ em và thanh thiếu niên (được giới thiệu để ngăn ngừa làm việc quá sức mãn tính, được xác định là dẫn trực tiếp đến bệnh tật và biến dạng, và gián tiếp đến tỷ lệ tai nạn cao).
Tuy nhiên, theo sự thúc giục của Thanh tra Nhà máy, một Đạo luật khác vào năm 1844 đưa ra những hạn chế tương tự về giờ làm việc đối với phụ nữ trong ngành dệt may đã đưa ra một yêu cầu về bảo vệ máy móc (nhưng chỉ trong ngành dệt may và chỉ trong các lĩnh vực có thể được tiếp cận bởi phụ nữ hoặc trẻ em).
Năm 1840, một Ủy ban Hoàng gia đã công bố những phát hiện của mình về tình trạng điều kiện cho công nhân của ngành khai thác mỏ ghi lại môi trường nguy hiểm khủng khiếp mà họ phải làm việc và tần suất tai nạn cao. Ủy ban đã gây ra sự phẫn nộ của công chúng dẫn đến Đạo luật Mỏ năm 1842.
Đạo luật này đã thành lập một thanh tra cho các mỏ và collieries dẫn đến nhiều vụ truy tố và cải thiện an toàn, và đến năm 1850, các thanh tra đã có thể vào và kiểm tra các cơ sở theo quyết định của họ.
Otto von Bismarck đã khánh thành luật bảo hiểm xã hội đầu tiên vào năm 1883 và luật bồi thường cho người lao động đầu tiên vào năm 1884 - lần đầu tiên của loại hình này ở thế giới phương Tây. Các hành động tương tự tiếp theo ở các quốc gia khác, một phần để đối phó với tình trạng bất ổn lao động.
Nhật Bản cũng du nhập chính sách này từ Thiên Hoàng Minh Trị nhưng mà nội dung của nó vào Nhật Bản vẫn chưa được áp dụng nên Hirohito nhờ vào đó mà có thể sửa đổi lại một số nội dung cho phù hợp với xã hội hiện tại của nhật Bản.
Nhờ những kiến thức mà Hirohito đã học ở kiếp trước và có cuộc khảo luận với các chuyên gia kinh tế cho nên vẫn có thể hoàn thành được nội dung của 《 Luật bảo vệ lao động 》
Lương tối thiểu là mức thù lao thấp nhất mà người sử dụng lao động có thể trả cho người lao động của họ một cách hợp pháp - giá sàn mà người lao động không thể bán sức lao động của họ với giá thấp hơn.
Luật tiền lương tối thiểu hiện đại bắt nguồn từ Sắc lệnh Người lao động (1349), là sắc lệnh của Vua Edward III quy định mức lương tối đa cho người lao động ở Anh thời Trung cổ.
Vào mùa thu năm 1348, bệnh Dịch hạch đen đến Anh và tàn phá dân số. Tình trạng thiếu lao động trầm trọng khiến tiền lương tăng cao và khuyến khích Vua Edward III đặt ra mức trần lương.
Những sửa đổi tiếp theo đối với sắc lệnh, chẳng hạn như Điều lệ về Người lao động (1351), tăng hình phạt trả lương cao hơn mức quy định.
Mãi cho đến những năm 1890, những nỗ lực lập pháp hiện đại đầu tiên để điều chỉnh mức lương tối thiểu đã được nhìn thấy ở New Zealand và Úc.
Các chủ cửa hàng bán đồ may mặc được cho là có quyền thương lượng không công bằng đối với nhân viên của họ, và mức lương tối thiểu được đề xuất như một phương tiện để khiến họ trả lương công bằng.
Theo thời gian, trọng tâm đã thay đổi sang việc giúp mọi người, đặc biệt là các gia đình, trở nên tự túc hơn. Cho nên Hirohito bắt buộc phải có mức lương như vậy để cho người dân có thể gánh bỏ áp lực nuôi gia đình mà chuyên tâm làm việc phát triển đất nước.
Hirohito biết kiếp trước người dân Nhật Bản là một trong những người cuồng công việc nhất trên thế giới. Người dân Nhật không có khái niệm nghỉ ngơi, dù đã về hưu họ vẫn tìm công việc khác phù hợp để làm việc.
Vì tình yêu dành cho công việc và tinh thần trách nhiệm với xã hội, họ cố gắng cả đời để làm việc và cống hiến. Khó có quốc gia nào, nhiệt huyết làm việc lại cao như người Nhật.
Hơn nữa vào giữa những năm 1930, mức lương danh nghĩa của Nhật Bản bằng 1/10 so với ở Hoa Kỳ.
Nhưng mà hiện tại là những năm 20 ( thập niên hay là những năm = 10 năm ) cũng cách hơn 10 năm tính toán ra thì cũng biết được lương của người dân Nhật Bản là rất thấp.
Chính những lý lẽ đó mà Hirohito đành phải ra những chính sách phù hợp cho người lao động.
《 Lương tối thiểu 》và《 Luật bảo vệ lao động 》 sẽ cho người lao động thấy kết quả mà họ chăm chỉ làm việc trong suốt thời gian qua và cũng hạn chế số giờ làm việc tối đa của mỗi người trong công việc là 52h/tuần
Để tránh tình trạng nhiều người lao động tìm đến cái chết do làm việc quá sức và áp lực cao như ở Nhật Bản kiếp trước nên Hirohito phải ra lệnh này để bảo vệ sức khỏe cho họ.
" Thưa điện hạ đây là bản kế hoạch mà Bộ Xây dựng sẽ bắt đầu thi hành trong năm sau mời ngài xem qua. Bộ Xây dựng mới vừa thành lập có rất ít nhân viên cho nên hiện nay các nhân viên của Bộ Xây dựng chỉ khảo sát được một số khu vực cần quy hoạch và một số tuyến đường cần nâng cấp và sửa chữa. "
Hirohito nhận lấy và nghe kế hoạch của Bộ trưởng Bộ Xây dựng là Kakashi Hamada.
Kakashi Hamada là kiến trúc sư và đã theo học bên Anh theo chính sách du học của Thiên Hoàng Đại Chính.
Kakashi sau khi nhận được bằng kiến trúc, anh làm ở đó một thời gian sau rồi về Nhật vào năm 1920. Ông làm cho chính phủ về việc quản lý xây dựng.
Sau này, Hirohito cải cách thì thêm nhiều bộ môn nên thiếu rất nhiều người buộc phải đôn lên và Kakashi là một trong số đó với tính cách và năng lực nên được bầu làm bộ trưởng Bộ Xây dựng.
" Bộ Xây dựng cứ thế kế hoạch mà làm. Một số khu vực có thể cho các doanh nghiệp đấu thầu.
Nam tước Furuichi Kōi vừa mới thành lập công ty vào năm ngoái hình như là đang xây dựng tàu điện ngầm.
Bộ Xây dựng hãy cử người tới đó khảo sát xem sau đó chúng ta xây sẽ xây dựng tàu điện ngầm trên khắp cả nước. "
" Vâng, thần sẽ cho người đi làm ngay. "
Kakashi đã du học bên Anh nên ông biết tầm quan trọng của tàu điện ngầm.
Ông cũng muốn xây dựng tàu điện ngầm mà thái tử nhắc đến thì ông cũng thuận tiện làm luôn.
" Machiko, chúng ta vẫn còn tiền để cải cách chứ. "
Nếu muốn cải cách thì thứ không thể thiếu là tiền nên Hirohito cũng phải xem tài chính có đủ để tiếp tục không.
Nếu không thì tìm cách khác để giải quyết.
Những người khác nghe được như vậy cũng đồng loạt nhìn về phía Machiko.
Có hại độ hài lòng xen kẽ với tức.
Hài lòng là trong vài tháng cô chỉ đạo Cục Dự trữ rất gọn gàng, nhân viên kiểm tra và lấy đồ rất nhẹ nhàng không tốn nhiều thời gian. Tức là mỗi khi xin đồ đặc biệt là ngân sách thì phải nói thôi rồi. Muốn xin thêm ngân sách là cực kỳ khó khăn.
Các bộ môn khác muốn xin thì phải năn nỉ mới cho thêm nhưng mà muốn cho thêm thì phải khai báo rõ ràng sau đó cho người đi kiểm chứng thì mới được. Cho dù được quốc hội, Hirohito hay Thiên Hoàng hoàng phê chuẩn thì lấy cũng trả dễ dàng cũng phải khai báo và kiểm tra kĩ lưỡng mới được lấy thêm ngân sách.