Trong căn phòng bé tẹo không thể duỗi thẳng tay chân, Nguyệt Hồi cảm thấy phải rúc ở đây khó chịu kinh khủng.
Ca ca không thèm để ý đến nàng, nàng đành tiếp tục ghé vào khe cửa nhìn ra bên ngoài.
Khắp Hàm Nhược Quán đều tối hẳn đi, xa xa chỉ có ánh đèn lập lòe như hạt đậu, bởi vì còn cách một cánh cửa, ánh sáng bên trong phòng mông lung, giống như ngã vào một giấc mộng hỗn độn.
“Huynh nói xem nhỡ đâu có mật báo, Thái Hậu đột nhiên quay trở lại đây, thế thì phải làm sao?” Nguyệt Hồi bắt đầu tưởng tượng, ngay lập tức trên lưng nổi một tầng gai ốc, “Sẽ trị tội chúng ta phải không? Nói chúng ta mưu đồ gây rối, sau đó chém đầu chúng ta?”
Kiểu tình huống này có thể sẽ xảy ra, nhưng đó chỉ là khi Tư Lễ Giám chưa thể khống chế toàn bộ hậu cung Đại Nghiệp thôi.
Với tình thế hiện giờ thì cho dù có người để lộ tiếng gió, Thái Hậu biết hắn đang trốn trong căn phòng nhỏ này cũng tuyệt không thể chạy tới bắt người mà không thương lượng.
Thái giám ác độc, có chuyện gì mà không dám làm? Trước đây gan Uông Chẩn nhỏ, dù ở bên ngoài khiến rất nhiều người căm hận nhưng đối với các chủ tử trong cung vẫn là phận thấp hèn, không dám không tận tâm.
Lương Ngộ thì sao, nhìn qua văn nhã hiền lành, khi xuống tay còn tàn nhẫn hơn Uông Chẩn gấp mười.
Thái Hậu cũng biết phải chọn quả hồng mềm mà nắn, ngày trước chèn ép được đám nội quan, nàng có thể thỏa sức ngang bướng; nhưng bây giờ trong ngoài Tử Cấm Thành đều do Tư Lễ Giám nắm giữ, trong lòng căm hận ác nô khinh chủ nhưng vẫn không thể không nhẫn nhịn, tránh xảy ra xung đột chính diện.
Nguyệt Hồi nhát gan sợ chết, tự suy nghĩ vẩn vơ đã sợ đến nỗi run lẩy bẩy.
Lương Ngộ thấy nàng ngốc đến buồn cười, cố ý trêu đùa nàng, thuận theo câu chuyện của nàng thở dài: “Chuyện lật thuyền trong mương xưa nay nhiều lắm, hôm nay cái đầu vẫn còn nằm nguyên lành, nói không chừng ngày mai đã đánh mất.
Ta thì không sao, sống cũng chỉ đến vậy, chẳng mong cầu gì, dẫu có bất trắc cũng chỉ như một giấc mơ bị dập tắt.
Muội thì sao, còn có tâm nguyện gì chưa xong không?”
Nguyệt Hồi nghe hắn nói năng thẳng đuột, lông tơ khắp người đều dựng đứng.
Đường sáng nhàn nhạt xuyên qua khe cửa in lên mũi miệng nàng, cặp mắt ấy càng trừng to hơn trong bóng đêm.
“Tâm nguyện chưa xong của muội còn nhiều lắm, mười năm chưa đủ để hoàn thành.
Muội mới hưởng phúc chẳng được mấy ngày, chưa nhìn thấy Tiểu Tứ thăng chức cưới vợ, muội chết cũng không nhắm mắt.”
Lương Ngộ nghe thấy nàng lại nhắc đến Tiểu Tứ, trong lòng chẳng vui tẹo nào.
Theo lý mà nói một đứa bé nhặt về, sống chết hoàn toàn đều nằm trong tay hắn, hắn thổi một hơi liền tan vào mây khói, nhưng đứa bé đó lại gọi Nguyệt Hồi là tỷ tỷ, thế là bỗng nhiên lại hóa thành người một nhà với huynh muội hắn.
Một người là ca ca, một người là đệ đệ, nàng còn thương nhớ đệ đệ nhiều hơn một chút, bởi vì đệ đệ giả này vẫn còn nhỏ, không quyền không thế.
Nói ra nghe cũng có lý, cứ như thể biến thành người cùng lứa với nhau, sẽ khiến người ta nảy sinh tâm tư muốn phân cao thấp.
Lương Ngộ không thích nàng suốt ngày Tiểu Tứ này Tiểu Tứ nọ, nghiêm túc luận ra hắn và nàng mới là ruột thịt, đứa bé gặp giữa đường kia rốt cuộc có đáng là gì!
“Muội có thể đi cùng người ta một đoạn, không thể đi cùng người ta cả đời, khi thực sự tới lúc ấy rồi sẽ không rảnh lo những thứ đó đâu.” Hắn nhàn nhạt nói, “Sinh tử là điểm mấu chốt, bước qua được sẽ chẳng sao nữa, có khi còn gặp lại người thân đã mất, còn vui vẻ hơn cả lúc sống.”
Nguyệt Hồi nói: “Huynh đừng nghĩ vậy chứ, sống để ngắm nhìn phồn hoa khắp chốn, không vui sao? Muội muốn ở lại bên huynh sống thật dài lâu, huynh ôm quyền cả đời, còn chưa kịp hưởng thụ hết mà, cứ thế xuôi tay chẳng đáng chút nào.”
Lương Ngộ thở dài, “Mấy lời ôm quyền cả đời thế này cứ biết trong lòng là được, không thể nói oang oang ra ngoài.”
“Thì đang chỉ có mỗi hai chúng ta thôi mà.” Nàng dậm chân, “Trời ạ, lạnh chết mất, sao mà vẫn chưa đến thả chúng ta…”
Những thứ như bị đói bị lạnh vốn chẳng được coi là to tát gì, nhưng khi nghe người nhà nói ra lại cảm thấy rất đáng để tâm.
Lương Ngộ hỏi nàng lạnh ở đâu, “Là do ăn mặc mỏng manh quá sao?”
Nguyệt Hồi nói không phải, “Chân muội lạnh, đến mùa đông cứ bị như vậy, tay lạnh chân lạnh, dương khí trôi đi đâu hết.”
Hắn chẳng thấy chui vào một không gian nhỏ hẹp với muội muội là chuyện gian nan gì, dù sao cũng hiếm khi được nhàn rỗi thế này.
Nhưng bây giờ lại có chút bốc hỏa, ngại tên Thừa Lương làm việc bất lực, giờ mới ra nông nỗi.
Chỉ là hiện thời đành bất chấp những thứ đó, kéo nàng trở về chỗ ngồi, sau đó nâng chân nàng lên, cởi giày nàng ra.
Ủng của thái giám tầm thường không được làm tỉ mẩn như của những người có phẩm cấp, đế giày khâu mỏng dính, hễ trời đổ mưa hoặc tuyết là lại thấm nước.
Tuy đoạn đường từ nha môn Tư Lễ Giám đến Hàm Nhược Quán luôn có người dọn dẹp, nhưng nàng toàn chọn những chỗ tuyết đọng mà giẫm lên, đế giày mỏng nữa cũng không ngăn được hứng thú đùa vui của nàng.
Sờ một chút, quả nhiên tất bông lộ ra hơi ẩm, bảo sao lạnh đến run người.
Hắn đành nghĩ cách giúp nàng sưởi ấm, đang định cởi áo choàng trên người xuống bọc chân lại cho nàng, lại nghe thấy nàng lí nhí nói: “Không thể tùy tiện sờ chân cô nương, cho dù là ca ca cũng không được.”
Lúc này mà vẫn nghĩ đến nam nữ thụ thụ bất thân, sao bình thường lại chẳng thấy nàng nghĩ được đến vậy? Lương Ngộ còn không liếc nàng lấy một cái, “Ca ca muội là thái giám, không giống với người khác.”
Nguyệt Hồi nghe hắn nói thế, chẳng những không thoải mái mà còn khó chịu hơn, “Trong lòng muội không coi huynh là thái giám, ca ca của muội còn đàn ông hơn cả đàn ông.”
Hắn nghe xong tay hơi khựng lại, sau đó giúp nàng bọc lại kín mít hai chân, gác lên đùi mình.
Ôi chao, đây là ca ca ruột đó, Nguyệt Hồi dựa vào tường gạch lẩm bẩm tự nói: “Chỉ sợ về sau chẳng ai tốt với muội được như huynh.”
Trước khi Lương Ngộ thăng làm Bỉnh bút vẫn luôn phải phụng dưỡng người ta, nhưng đó chỉ là công việc, hoàn toàn khác ấm áp hé ra từ đáy lòng, hẳn đời này hắn cũng sẽ chẳng quan tâm ai được như quan tâm Nguyệt Hồi.
Nếu nàng cứ vậy mà ở lại trong cung, hắn có thể chăm sóc cho nàng một đời một kiếp, nhưng nếu nàng gả đi, vào sống trong phủ người, chẳng may bọn họ không đối xử tốt với nàng, mẹ chồng em chồng bắt nạt nàng, hắn làm sao mới đảm bảo nàng không phải chịu tủi thân thiệt thòi?
Vẫn là không yên tâm, không thể buông tay, cha mẹ không còn, nỗi vướng bận này càng đè nặng thêm đôi phần.
Đáng tiếc không thể nói thành lời, hắn hơi ngừng lại, chỉ hỏi nàng: “Còn lạnh không?”
Nguyệt Hồi rất muốn cởi đôi tất ướt kia, nhưng rốt cuộc vẫn không thể quá tùy tiện trước mặt ca ca, đành nói ấm hơn nhiều rồi.
Ngũ quan Lương Ngộ khắc sâu, trong bóng tối mập mờ lại càng rõ ràng hơn người bình thường.
Nguyệt Hồi sờ mặt mình, bỗng nhiên có chút bi ai, nếu so với hắn, quả thực nàng chẳng hề có ưu thế.
Rõ ràng là cùng cha cùng mẹ sinh mà, xem ra khi cha mẹ sinh con đầu lòng thì dốc hết tâm sức, đến lúc sinh đứa thứ hai thì tùy ý cho xong, ăn xén mất nguyên vật liệu.
Cuối cùng tuyết đã ngừng, Thừa Lương đứng dưới cái đình phía đông Hàm Nhược Quán, ánh sáng đèn lồng tưới xuống như thác nước, ngắm bầu trời dần chuyển về ảm đạm.
Con nuôi Đổng Tiến của y cắm tay áo vào nhau, nhìn về phía minh gian Hàm Nhược Quán một cái: “Cha nuôi, đến lúc rồi chứ ạ?”
Thừa Lương cười ha hả, “Ngươi nói xem bây giờ lão tổ tông của chúng ta đang làm gì?”
Đổng Tiến nghĩ ngợi: “Làm gì được ạ…tâm sự thôi.
Chẳng phải trong sách đã nói sao, công tâm vi thượng(*), nói nhiều thêm một lời, giao tình lại càng nặng hơn một chút, giống như ngày xưa Kinh Kha ám sát Tần Vương, nếu hai vị đó có thể được cùng nhốt chung một phòng giống như lão tổ tông chúng ta, Kinh Kha nào đến nỗi phải chịu một đao cơ chứ.”
(*) Công tâm vi thượng: Ý nói lấy việc làm tan rã tư tưởng của quân địch làm thượng sách.
(**) Dựa trên câu chuyện Kinh Kha ám sát Tần Vương Tần Thủy Hoàng nhưng bất thành và bị giết ngay tại chỗ, có thể đọc thêm tại đây.
Thừa Lương gật gù, “Tiểu tử giỏi đấy, rất có kiến giải.
Nhưng mà có một chuyện không giống, Kinh Kha là đàn ông, còn vị bên trong kia thì không.”
Về mấy chuyện dơ bẩn này, đối với đám thái giám không cần phải nói rõ, chỉ vài câu đã hiểu thấu.
Mặt Đổng Tiến tỏa sáng: “Ý của cha là…”
Thừa Lương ám muội cười: “Vạn Tuế Gia mở lời muốn giữ người lại ngự tiền rồi, một khi đã giữ, chuyện lâm hạnh chẳng phải là sớm muộn hay sao.
Những kẻ như chúng ta tốn bao nhiêu sức lực lên mấy lão nương nương, chẳng qua chỉ là để thêm chút thể diện, còn lão tổ tông lại là vì lợi ích thực tế.
Nếu vị kia đắc thế, lão tổ tông có thể nương cậy nàng một phen…Ngươi nghĩ mà xem?”
Trong bụng Đổng Tiến đều hiểu rõ, che miệng cười xấu xa: “Lão tổ tông đúng là lão tổ tông, tính toán sâu rộng hơn bất kỳ ai.
Giống như nuôi một đứa bé từ nhỏ, đứa bé lớn lên sẽ thành tâm báo hiếu, người kết giao từ khi nghèo hèn, tương lai phát tài sẽ không quên tình cũ.
Nhưng mà con nghe nói cô nương này là người thân của lão tổ tông…”
“Phải ‘thân’, ‘thân’ thì mới dễ nói chuyện.” Thừa Lương vuốt ve cái cằm, “Không cần biết có phải mạo nhận giả thân hay không, dù có là thân thật thì thế nào, loại người chúng ta… không bao giờ để hỏng những việc kiểu này.”
Dù sao làm thuộc hạ thì vẫn phải có nhãn lực, kéo dài chút đỉnh, tạo cơ hội cho hai vị kia được ở chung một chỗ, thường xuyên qua lại với nhau.
Cảm tình nảy sinh rồi, sau này lão tổ tông có được cả chì lẫn chài, làm sao mà thiếu phần của y được!
Đổng Tiến rất biết lợi dụng, tỏ ra rất đỗi tán thưởng với nhạy bén của cha nuôi: “Hai tên tiểu tử Dương Ngu Lỗ với Tần Cửu An không dễ xơi, suốt ngày khoe mẽ trước mặt lão tổ tông, quyết tâm muốn dìm cha xuống đây mà.
Luận lý lịch hai tên đó còn chẳng đáng xách dép cho cha, bây giờ còn dám tranh chức Bỉnh bút với cha rồi.”
Bỉnh bút là một chức quan béo bở, ai ai cũng ngẩng đầu nhìn, thành bại hay không đều phụ thuộc vào thần thông của mỗi người.
Thừa Lương ỷ vào lúc trước mình gánh vác chuyện tìm người, biết cân não hơn người khác đôi chút, cho nên lúc này mới dám tự tiện chủ trương.
Tính toán thời gian, Thái Hậu đã lễ Phật xong được hai khắc, hẳn đã đến lúc, vì thế lại ôm chìa khóa vào đại diện, vòng qua cờ rủ trùng trùng đứng ngoài cửa nhỏ giọng cất lời: “Lão tổ tông, Thái Hậu giữ tiểu nhân lại hỏi thăm chuyện ngự tiền, tiểu nhân thực sự không thoát thân được, có chút chậm trễ, mong lão tổ tông thứ tội.
Lão tổ tông chịu liên lụy, phải ở trong cái ổ nhỏ này lâu như vậy, tiểu nhân lập tức mở cửa cho ngài đây.”
Khóa đồng trên cửa mở ra, thấy ngay cô nương đang xỏ giày, Thừa Lương cẩn thận quan sát một hồi, quần áo Chưởng ấn vẫn phẳng phiu, không nhìn ra có gì dị thường, không khỏi có chút thất vọng.
Nhưng nghĩ lại mà xem, cô nương đã từng ngủ lại trong cung, còn ngủ ngay trong trị phòng tấu sự, có lẽ đã sớm làm chuyện gì đó, không cần phải đợi đến tận hôm nay.
Xem ra bây giờ đã lỡ làm điều thừa thãi, Thừa Lương ngó sắc mặt Chưởng ấn, cứ nghĩ có thể nhìn ra chút vui buồn gì, đáng tiếc mọi thứ đều như thường.
Lúc này Thừa Lương hơi lo sợ, thuộc hạ hầu hạ cấp trên, sợ nhất là những lúc thế này, càng bình tĩnh thì sau lưng lại càng nhiều khả năng không lường được.
Lại nhìn cô nương một cái, nàng vẫn là dáng vẻ vui tươi hớn hở, hỏi: “Đến giờ cơm rồi phải không? Tối nay ăn gì thế?”
Thừa Lương nói: “Bữa tối lão tổ tông chỉ ăn thanh đạm, có cải xanh xào quả, đậu giá, cùng với một phần đậu phụ hoa mai.” Dứt lời lại cười giả lả, “Cô nương muốn ăn cái gì, hoặc là có món gì yêu thích, ta sẽ đi dặn phòng bếp làm cho.”
Nguyệt Hồi nghĩ ngợi, hình như đòi ăn đòi uống không được thích hợp cho lắm, liền cười đáp: “Ban đêm ăn nhiều sẽ béo, thanh đạm một chút vẫn hơn.”
Vẫn là Lương Ngộ lên tiếng, “Thêm một đĩa gan ngỗng đi.” Nghe nói khi Hoàng Đế dùng bữa, cặp mắt nàng cứ dán chặt vào bàn đồ ăn.
Đáng thương, Hoàng Đế bảo nàng ăn, nhưng nàng còn bận phải giả bộ.
Thừa Lương vội vâng, nếu Chưởng ấn không nói lời nào thì chắc chắn hôm nay sẽ có giông bão, nhưng Chưởng ấn vừa mở miệng, không cần biết là nói gì, thế đã đủ cho người ta có một cảm giác may mắn được bò ra được khỏi điện Diêm Vương.
Đổng Tiến không được gọi nên không dám chạy đến, chỉ đứng bên đình xa xa khoanh tay chờ.
Chưởng ấn không hề dừng lại, bước nhanh ra khỏi Hàm Nhược Quán, vị cô nương bị nhốt cùng giả trang nội thị, trông thân hình quả thật giống thiếu niên choai choai.
Có lẽ cha nuôi sắp được thăng quan tiến chức rồi, Đổng Tiến nhìn thấy Thừa Lương thì cười tươi như hoa nở.
Đang định mở mồm, Thừa Lương lại giơ tay làm động tác cắt cổ với nó, nó vội im, mở to mắt ngạc nhiên nhìn.
Thừa Lương đi tới, thở dài nói: “Chạy nhanh đi dặn phòng bếp chuẩn bị một phần gan ngỗng.”
Đổng Tiến không rõ nguyên do, “Lão tổ tông chưa bao giờ ăn thứ đó mà, nói ngại bẩn…”
Thừa Lương tặc lưỡi, “Còn lèm bèm gì nữa, không phải lão tổ tông muốn ăn!”
Một người không ăn nội tạng lại cho phép có mặt gan ngỗng trên bàn, thế là nể nang đến mức nào cơ chứ! Cô nương không tầm thường, đây là điều chắc chắn, nhưng mà vẫn còn một chuyện làm Thừa Lương không hiểu, Thái Hậu lễ Phật, vì sao Chưởng ấn lại phải đưa người trốn vào trong phòng nhỏ, rốt cuộc là để làm gì? Lẽ ra bên trên không tiết lộ thì không được hỏi đến, nhưng mà sự tình kỳ quái, thật sự khiến người ta tò mò…
Ở phòng ăn đàng kia nội thị nối đuôi nhau đưa bữa tối vào, trên mỗi khay đều được che bằng một cái lồng bàn tơ vàng nho nhỏ, tám góc lồng treo lục lạc bé xinh.
Hộp đồ ăn mở ra, khay được đặt lên bàn, cái lồng nhỏ kia rung động, rào rạt cất tiếng vang.
Mỗi lần trong cung ăn cơm đều phải làm đủ loại phô trương, bởi vì có mặt người ngoài nên Nguyệt Hồi không tiện ngồi xuống, đành phải lui sang một bên làm bộ đứng hầu.
Tiểu thái giám trước mặt lui tới liên tục, nàng vốn chỉ cần chờ đám người rời đi là được, không ngờ đúng lúc này một Tùy đường đứng ở đầu kia bày món thuận tay đưa cho nàng một cái đĩa, ý bảo nàng chuyển về phía bàn.
Nguyệt Hồi vội cong eo tiếp nhận, nàng quả thực muốn được mó tay làm một hai việc gì đó, dù sao khi ở bến thuyền vẫn luôn bôn ba ngược xuôi, bỗng nhiên rảnh rỗi làm nàng không quen.
Nhưng tên Tùy đường này khác hẳn với Lạc Thừa Lương, mặt lạnh tanh, bộ dạng vẫn như bình thường.
Nguyệt Hồi có chút buồn bực, theo lý mà nói thì những thiếu giám phẩm giai cao trong Tư Lễ Giám đều phải biết ít nhiều về sâu xa của nàng với Chưởng ấn, chưa cần cúi đầu khom lưng, ít nhất là còn tươi cười.
Vị này thì ngược lại, hoàn toàn coi nàng như tiểu thái giám bình thường, từng đĩa đồ ăn được chuyển qua, nàng vừa đặt xong đĩa này lại quay lại nhận đĩa khác.
Cuối cùng chén đĩa trên bàn đều được chuẩn bị xong xuôi, người hầu thiện đều lui ra ngoài, Nguyệt Hồi nhìn người kia quay lại, nhỏ giọng hồi bẩm về phía Lương Ngộ: “Lão tổ tông, nghỉ một chút thôi ạ, bữa tối đã chuẩn bị xong rồi.”
Lương Ngộ đặt đề bổn trên tay xuống, đi tới ngồi trước bàn, cũng không hề nhìn đến Nguyệt Hồi, để cho hạ nhân hầu hạ lau tay rồi nói: “Vẫn là Hàm Nhược Quán, ngày mai làm cho thanh tịnh một chút, ta có chỗ cần đến.”
Tùy đường kia đáp vâng, xua tay tống cổ hết người trong phòng ra, lúc này mới cong eo về phía Nguyệt Hồi, “Tiểu nhân Dương Ngu Lỗ, thỉnh an cô nương.”
Nguyệt Hồi quay đầu nhìn Lương Ngộ, vẻ mặt ca ca không còn lạnh nhạt như lúc gặp Thừa Lương, vẫy tay ý bảo nàng ngồi xuống.
Nguyệt Hồi mới đặt mông xuống ghế, Dương Ngu Lỗ liền vắt khăn dâng lên, nàng vội đứng dậy nhận lấy, “Không dám làm phiền Thiếu giám, đa tạ ngài.”
Đến lúc này Dương Ngu Lỗ mới lộ ra chút ý cười, “Ban nãy đông người, ta đường đột, mong cô nương thứ lỗi.”
Đây chính là quy cách làm việc tiêu chuẩn trên quan trường, tuyệt đối không hề hiện sơn lộ thủy trước mặt người khác, chỉ vậy là đủ để nhìn ra cao thấp giữa Lạc Thừa Lương và Dương Ngu Lỗ.
Nguyệt Hồi mỉm cười đáp lễ, “Thiếu giám quá lời, cứ như vậy mới không sợ sai sót, ngài làm rất đúng.”
Rốt cuộc cô nương mà Lương Ngộ tốn biết bao công sức kiếm tìm nhiều năm là người như thế nào, không ai dám suy đoán, chỉ biết là quan trọng, cứ như một bảo bối.
Bây giờ cô nương lại sắp lên ngự tiền, quả thật càng nên nịnh hót, nhưng phải nịnh làm sao cho thật tinh tế, phải chọn đúng thời cơ.
Có những kẻ nghĩ gì trong lòng thì đều phát tác hết ra, sợ người ta không biết mình hiểu chuyện, càng là như vậy mới càng hỏng bét.
Lương Ngộ vừa gắp thức ăn cho Nguyệt Hồi, vừa nói với Dương Ngu Lỗ: “Khu mỏ Đại Đồng thiếu một chân giám quặng, tống cổ Thừa Lương đến đó đi.”
Dương Ngu Lỗ nghe xong thì vâng, thậm chí còn chưa nâng mắt lấy một lần.
Hiện nay đang lúc Tư Lễ Giám đề bạt người, ai mà bị phái đi vào lúc này cũng giống như Hoàng tử bị Hoàng Đế hạ lệnh đưa đến phiên địa, vĩnh viễn mất tư cách thăng nhiệm.
Thêm một người bị loại trừ, người ở lại liền nhiều thêm một phần thắng, Dương Ngu Lỗ thầm thở phào, nhưng tuyệt đối không để lộ vui sướng ra ngoài mặt, nghĩ ngợi nói: “Khu mỏ Đại Đồng đầy rẫy quặng bá lưu manh, tiểu nhân sợ Lạc thiếu giám đi một mình sẽ chịu thiệt.
Còn cần Đốc chủ bảo cho biết, chi bằng phái thêm mấy phiên tử Đông Xưởng đi theo, đến đó tiện chăm sóc.”
Đây là chỗ thông minh của Dương Ngu Lỗ, nói văn vẻ thì là chăm sóc, thực ra là để giám thị.
Huống hồ phiên tử khi trước được phái đi tìm cô nương vẫn còn ở trong Đông Xưởng, quan hệ giữa Chưởng ấn và cô nương lại không rõ ràng, chứng tỏ không muốn để cho người ngoài biết, vậy thì càng không để giữ những phiên tử kia lại được.
Lương Ngộ ừ một tiếng: “Việc này giao cho ngươi lo đi.” Rồi lại đẩy đĩa gan ngỗng đến trước mặt Nguyệt Hồi, “Làm sao thế? Không thích ăn?”
Thấy nơi này không còn việc của mình, Dương Ngu Lỗ hành lễ rời khỏi chính đường.
Đứng dưới hiên nhìn, gió khá lớn, làm cho lụa đỏ buộc trên cây lựu phất phới như lửa cháy.
Dương Ngu Lỗ vỗ tay, Chưởng ban lập tức tới nghe lệnh, y nhàn nhạt nói: “Mang theo vài người đến phủ Lạc thiếu giám một chuyến.
Bây giờ kinh thành lạnh, Đại Đồng còn lạnh hơn, bảo Thiếu giám mang nhiều áo quần theo một chút, chẳng may trên đường đi lại bị cảm.”
Tiếng bước chân vội vàng ngoài hành lang, Nguyệt Hồi dựng lỗ tai lên, nghe rõ ràng hết.
Chỉ việc thuận miệng nói mấy câu đã định đoạt xong tiền đồ của một người, đây chính là quan trường.
Nguyệt Hồi nhìn Lương Ngộ một cái, hắn vẫn thong thả ăn cơm, tựa như mọi thứ bên ngoài đều chẳng liên quan gì.
Nàng không nhịn được mà hỏi: “Ca ca, Lạc thiếu giám làm việc không tốt à? Sao huynh lại muốn tống cổ hắn?”
Lương Ngộ cụp mắt, lông mi che khuất con ngươi, ngâm nga nói: “Tư Lễ Giám nhiều người tài, ai ai cũng biết làm việc, nhưng dù làm tốt cũng chưa chắc đã giữ được.
Trong cung có quy củ của trong cung, biết quá nhiều quá lộ liễu, người phía trên không chấp nhận nổi hắn.
Thông minh thì phải biết giấu trong bụng, phải chín chắn, đây mới là cách giữ mạng tốt nhất trong Tử Cấm Thành.
Lạc Thừa Lương là loại không nên thân, lúc trước ham mê bài bạc, mất hết gia nghiệp mới tịnh thân vào cung, giữ kiểu người con buôn này lại thì sớm muộn gì cũng thành họa, nhân lúc còn sớm đuổi đi lại chẳng hơn.”
Nguyệt Hồi hiểu ra, “Hôm nay hắn ta cố ý kéo dài thời gian, không chịu làm việc đứng đắn, đúng không?”
Lương Ngộ buông đũa xuống, lau miệng nói: “Dám tự chủ trương, hôm nay dám kéo dài, mai ắt dám mật báo.
Huống hồ Hoàng Thượng muốn muội tiến cung, trước khi đưa muội vào ta cần phải cắt đứt sạch sẽ chuyện bên ngoài, tương lai đi con đường nào cũng không lo hậu hoạn, vậy mới tốt cho muội.”
Thực ra Nguyệt Hồi biết tâm tư ca ca, ngoài miệng hắn không nói, nhưng hắn rốt cuộc vẫn muốn để nàng làm nương nương.
Còn nàng, nàng chẳng có mục tiêu gì cho tương lai, lúc trước tính toán với Tiểu Tứ vào làm thiếp cho nhà giàu, bây giờ thân phận thay đổi, tìm được chỗ dựa rồi, ấy chẳng phải nước lên thì thuyền cũng lên, vào làm vợ nhỏ cho Hoàng Đế sao.
Có đôi khi Nguyệt Hồi quá vô tư, nàng lại ăn gan ngỗng của nàng, khua khoắng đũa nói: “Chắc phải tới tám phần Lạc thiếu giám cho rằng tương lai muội sẽ làm đối thực cho huynh, cho nên mới to gan tác hợp chúng ta.” Nàng cười rộ lên: “Mấy tên đó suốt ngày chỉ tơ tưởng chuyện vớ vẩn, đầy một bụng nam đạo nữ xướng(*).
Muội đứng đắn thế này, ca ca cũng đứng đắn thế này, còn phải lo chúng ta dan díu với nhau chắc.”
(*) Ý nói nam nữ đều làm những chuyện cực kỳ xấu xa ti tiện.
Lương Ngộ nghe nàng chẳng giữ được miệng, chỉ biết thở dài.
“Cô nương đàng hoàng, cái gì mà đối thực gian díu.
Muội phải lưu ý chút đi, đừng có nghĩ cái gì nói cái đấy.”
Nguyệt Hồi nhe răng, “Chẳng nhẽ huynh muốn muội nói một đằng làm một nẻo với huynh? Trong lòng muội rất bình thản, cho nên mới đào hết tâm can ra nói chuyện.
Nếu một ngày nào đó muội cất giấu mọi thứ vào lòng, huynh muốn nghe muội nói thật cũng không thể nữa đâu.”
Đúng là lý lẽ này, hắn biết.
Hoặc sớm hoặc muộn, rồi sẽ có một ngày như vậy.
Gan ngỗng là đồ ăn, nói chuyện là gia vị, Nguyệt Hồi nhớ ra hỏi hắn: “Đồ ăn ngon thế này, huynh không nếm thử xem?”
Lương Ngộ luôn bài xích mấy thứ nội tạng tim gan, nhìn một cái đã thấy khó chịu, vội rời tầm mắt nói không, “Muội thích thì ăn nhiều một chút, không cần lo cho ta.”
Có đôi khi Nguyệt Hồi cảm thấy ca ca thật kỳ quái, hắn có hai gương mặt, một là mặt sát phạt quyết đoán, một là mặt thanh quý mềm mại.
Thái giám trong cung phần lớn đều chẳng được ai để vào mắt, đến khi Tư Lễ Giám lên làm chủ, ai ai cũng trở nên nổi bật, chẳng trách các Thái phi tình nguyện qua lại với bọn họ.
Nàng chống cằm đánh giá ca ca hồi lâu, “Đáng tiếc!”
Nàng tự dưng nhảy bổ ra một câu, người đối diện giương mắt nhìn, “Đáng tiếc cái gì?”
Nguyệt Hồi nhớ đến tình cảnh ngày đó bị phiên tử đưa đến phủ, bật cười che miệng nói: “Ngày đó chúng ta nhận thân, phiên tử còn nói với muội ‘phúc khí đến rồi’, cứ nghĩ là do muội quá xinh đẹp bị huynh nhìn trúng, đưa muội vào phủ để làm thiếp.
Về sau trời xui đất khiến thế nào huynh lại thành ca ca, khi đó muội nghĩ nếu không phải sinh ra cùng một nhà thì thật tốt, dù muội có dùng hết thủ đoạn cũng phải ôm chặt huynh không buông.”
Lại là giọng điệu kinh động người ta, hắn nghe nhiều rồi, sớm đã thành quen.
Còn về chút tâm tư nho nhỏ của nàng khi đó, hắn làm sao mà không nhìn ra cho được, ngay từ cái nhìn đầu tiên nàng đã mơ ước hắn, ném ánh mắt ấy vào đêm tối cũng phát sáng trưng.
Nàng ngượng ngùng xoắn xuýt, làm bộ làm tịch, chỉ sợ khi biết bọn họ là huynh muội ruột thất lạc còn miên man suy nghĩ mấy ngày.
Lúc ấy hắn đã biết ngay đây là một nha đầu ngó mặt đặt món, còn may trông hắn không tệ, nếu mà xấu thì phải đến chắc nàng chẳng muốn nhận hắn đâu.
Bây giờ nàng nói toạc ra, nói ra được chứng tỏ trong lòng đã không vướng bận, chỉ là hắn nghe vào lại thấy một hương vị kỳ dị khác, giống như trên người mọc đầy sợi chỉ mảnh, túm một cái, thương gân động cốt.
Hắn nhẹ nhàng thở ra, trêu ghẹo giữa người nhà với nhau, cũng chỉ cười một cái liền qua.
Hắn cúi đầu gạt lá trà trong chén, “Đừng nói bậy, người ta chê cười.”
Nguyệt Hồi ỡm ờ hai câu, bắt đầu đàm luận chuyện ngày mai giả mạo Thái Hậu tiếp kiến Nội các.
Lương Ngộ dạy nàng một lượt những từ trong cung quen dùng, không thể để xảy ra sơ xuất như “trẫm thánh cung không khỏe” lần trước.
Nguyệt Hồi rất thông minh, đã dạy một lần thì sẽ không hỏi lại lần hai.
Đến ngày hôm sau nàng ngồi sẵn trong thứ gian phía đông Hàm Nhược Quán, Lương Ngộ đã sớm an bài xong hết những thứ phô trương cần thiết, vừa tan triều lập tức sai thái giám chạy đến triều phòng phía tây truyền lời, nói Thái Hậu triệu kiến Trương thủ phụ.
Trương Hằng không hề nghi ngờ gì, vội vàng chạy thẳng một mạch đến hoa viên.
Bình thường Thái Hậu luôn triệu kiến ở Từ Ninh Cung, hôm nay lại đổi đến Hàm Nhược Quán làm Trương Hằng hơi kinh ngạc.
Nhưng dù sao cũng chỉ cách hoa viên Từ Ninh Cung một đường đi, ngẫm nghĩ lại cũng không quá kỳ lạ, đi đến dưới hành lang thì dừng lại, sai người vào thông truyền.
Chỉ chốc lát sau ma ma bên trong đi ra, cười nói: “Bây giờ Tư Lễ Giám lộng hành, tin tức trên triều đều bị bọn chúng cắt đứt, vào Từ Ninh Cung không tiện.
Hôm nay Thái Hậu đặc biệt mời Thủ phụ đại nhân tới là vì có chuyện quan trọng cần thương lượng, chỉ là kiêng kị tai mắt, không có cách nào giáp mặt với đại nhân, hôm nay đành cách mành nói chuyện vậy.”
Trương Hằng là lão thần, làm quan nhiều năm, tính tình nhân vật cầm quyền nào ông ta cũng hiểu rõ.
Ngày thường Thái Hậu đã quái gở sẵn, khiến người ta hoang mang như bị thiên cẩu nuốt mất mặt trăng, bởi vậy không cần biết nàng làm trò gì, chắc hẳn đều sẽ có nguyên cớ.
Giống như hôm nay, Thái Hậu nằm sau mành thở ngắn than dài: “Tiên Đế Gia đi được hơn hai năm rồi, đêm qua ta mơ thấy ông ấy, đứng cách xa ta ba trượng, mắt đỏ lên như sắp khóc, nói cuối cùng Hoàng Đế sắp đại hôn rồi, xã tắc Mộ Dung có chỗ trông cậy.”
Trương Hằng đứng cách mành dạ vâng: “Hoàng Thượng tự mình chấp chính, đây là củng cố triều cương, là chuyện tốt ích quốc lợi dân ạ.”
“Ngươi cũng nói đây là chuyện tốt, ta nghĩ mãi, rốt cuộc cũng không nên ngáng chân hắn ngay trước thềm chuyện tốt như vậy.” Ngữ điệu Thái Hậu tang thương, là kiểu ngữ điệu mà tuổi này nên có, trầm tĩnh nhưng mới chỉ đến giữa chừng, chậm rãi nói: “Tuy Hoàng Đế không phải do ta sinh, nhưng ta tiến cử hắn kế vị, tương lai hắn chính là chỗ dựa cả đời của ta.
Chuyện đại hôn này nghe theo ta mà lại không nghe theo hắn, hôm qua ta suy nghĩ một đêm, Hoàng Đế không nói gì, Tiên Đế Gia lại tìm ta khóc, lòng ta không đành.”
Trương Hằng nghe ra ý tứ Thái Hậu, xem ra là muốn sửa lại chủ ý, lời chắc nịch ngày hôm qua không tính nữa.
Thái Hậu vốn muốn để cho cháu ngoại nhà mẹ để lên làm Hoàng Hậu là vì ích lợi hai nhà Giang – Tôn, không dính dáng đến người khác, bây giờ muốn thay đàn đổi dây cũng chỉ cần một câu của nàng là được.
Trong khi Trương Hằng đang đắn đo, Thái Hậu lại hỏi một câu thế này: “Trương thủ phụ, ta đã suy nghĩ cẩn thận rồi, ngươi còn băn khoăn gì không?”
Thái Hậu nghĩ kỹ rồi, ông ta làm sao mà dám hồ đồ! Trương Hằng nói: “Thần không dám băn khoăn…Ý của thần là, chiếu thư Hoàng Hậu này ban hay không ban, tất cả đều nghe Thái Hậu phân phó.”
Thái Hậu nằm sau tấm mành đáp: “Phải ban.
Ta nghĩ tới nghĩ lui, cháu gái Thái phó Từ Túc tri thư đạt lý, là lựa chọn rất tốt.
Xưa nay cưới vợ phải cưới vợ hiền, sách nhà bọn họ chất cao được lên tận mái hiên, cô nương còn có thể sai đi đâu được? Ngươi thấy sao?”
Lúc này lời đáp “đúng ạ” của Trương Hằng đã nhuốm màu do dự, bởi vì cả nhà Từ Túc đều theo phe Hoàng Đế, từ trước đến nay không hề hợp lòng Thái Hậu.
Thái Hậu thì sao, là người đã ghi thù là ghi đến tận kiếp sau, lúc này lại đột nhiên rộng lượng, thật khiến người ta không thể tưởng tượng nổi.
Trương Hằng trầm ngâm, “Ban nãy thần không nghe rõ, ý của Thái Hậu nương nương là sách phong cháu gái Từ Túc làm Hoàng Hậu sao ạ?”
Thái Hậu nói: “Không sai, chính là nàng.”
Trương Hằng vốn thống lĩnh Nội các, khi Đông Xưởng chưa nổi lên có thể nói là không ai sánh bằng, thậm chí quan viên Nội các còn dám cãi lại Hoàng Đế.
Nhưng mấy ngày nay thì không, vài vị trí trụ cột bị hãm hại, lập tức nhụt hết tinh thần, lúc này cũng không còn dám hy vọng xa vời có thể nắm giữ triều chính, làm tiểu Hoàng Đế phải hoãn việc tự mình chấp chính lại nữa.
Nhưng mà hôm nay người tâm cao khí ngạo như Thái Hậu lại mềm mỏng, không giống với tác phong bình thường cho lắm.
Trương Hằng lặng lẽ liếc mắt vào sau mành, nơi khe mành mơ hồ ẩn hiện tà váy hoa văn tối màu viền tơ vàng, ông ta lại vội cụp mắt, “Vâng, sau khi thần trở về Nội các sẽ lập tức soạn chiếu thư phong Hậu.”
“Nhanh một chút, tránh cho đêm dài lắm mộng.
Một khi Hoàng Hậu được định ra, Đông – Tây lục cung đã có chủ, phàm trong nhà quan viên trên ngũ phẩm nào có cô nương trên 14 dưới 20 đều đưa vào cung tham tuyển.
Còn có các phiên vương ngoại trấn khác họ nữa, đừng quên thông báo bọn họ một tiếng… Đằng Vũ Văn Nam Uyển kia, nghe nói nhiều thế hệ đều là mỹ nhân, hỏi xem nhà bọn họ có cô nương không, đưa một người vào đây giải buồn đi.”
Trương Hằng dạ vâng, bởi vì đã nhiều ngày phải sống trong bóng ma Tư Lễ Giám, quả thực sợ hãi ho chẳng dám ho, vừa lúc Thái Hậu sửa lại chủ ý, không cần mạo hiểm đắc tội với Lương Ngộ nữa.
Thế là ai ai cũng vui mừng, lãnh mệnh vang dội hơn bao giờ hết, hăng hái đi gánh vác.