Định hải phù sinh lục

Chương 103: Mệnh định



Ngoài thành Cáp Lạp Hòa Lâm, giữa ráng chiều đỏ tía, một đốm lửa lớn dần ngả xuống nơi chân trời, Hạng Thuật theo Xa La Phong tới tháp đá trên mô đất cao nằm ngay sau hoàng cung. Ngoài tháp có một gốc đại thụ xác xơ, tương truyền vào năm trăm năm trước, được chính tay Vệ Thanh trồng khi công phá Long Thành.

 

“Nhận được thư của ta không?” Hạng Thuật hỏi.

 

Xa La Phong lặng thinh đứng tại chỗ, Hạng Thuật dựa vào thân cây, trông về phía chân trời xa xăm.

 

“Người Hán kia là ai?” Xa La Phong đột nhiên hỏi.

 

“Thay vì hỏi lai lịch người Hán kia, ngươi nên quan tâm tung tích của Chu Chân hơn mới phải.” Gương mặt anh tuấn của Hạng Thuật được bao phủ trong những tia sáng sau cùng của hoàng hôn, không lâu sau, trời đêm với muôn vàn vì sao dâng lên, ánh sao chiếu sáng hai người trên mô đất cao ngoài cung Long Thành.

 

Xa La Phong giương mắt nhìn Hạng Thuật, nhanh chóng nói: “Hắn ở đâu? Ai nói tin này cho ngươi? Bọn ta chỉ phát hiện đám người A Khắc Lặc đã chết muốn báo thù. Chu Chân chưa từng xuất hiện, chưa bao giờ!”

 

“Sẽ có cơ hội.” Hạng Thuật lạnh nhạt đáp lại, rời khỏi gốc đại thụ bước tới chỗ Xa La Phong, rồi chợt khựng lại như ngờ ngợ nhớ ra điều gì, dường như cũng dưới một gốc cây, ở phía bên kia thân cây, cảm giác này mới quen thuộc làm sao. Vô số mảnh ký ức thác loạn tràn vào tâm trí Hạng Thuật, khiến hắn lặng người không nói nên lời.

 

“An đáp.” cuối cùng Xa La Phong không kiềm chế được nữa, gọi Hạng Thuật.

 

Hạng Thuật giơ tay ra hiệu cho hắn đừng cắt ngang mình.

 

“Không… ta không phải.”

 

Dường như có một giọng nói khẽ vang sau thân cây: “Ta chỉ vô tình là người mà ngươi cho rằng… thích hợp…”

 

Hạng Thuật vòng ra sau thân cây, thế mà chẳng thấy ai.

 

Trong mắt hắn hiện lên chút mờ mịt.

 

“An đáp?” Xa La Phong bước nhanh tới, nghi ngờ hỏi.

 

Hạng Thuật ấn một tay lên thân cây, thoáng cúi đầu, mày nhíu chặt, khi ngước lên nhìn Xa La Phong, trong mắt toát lên chút bất lực.

 

“Ngươi làm sao thế?” Xa La Phong khó hiểu hỏi hắn.

 

Trong tẩm điện.

 

Vua A Khắc Lặc lầm bầm: “Nhiều năm về trước… Thuật Luật Ôn từng là an đáp của ta.”

 

Trần Tinh nghe thế thì giật mình.

 

“Ông… các ông…” Trần Tinh nói, “thì ra thân thiết đến thế ư?”

 

Vua A Khắc Lặc thở dài một hơi nóng rực, Trần Tinh thay khăn ướt cho ông, giọng ông ngắt quãng, xen lẫn rất nhiều tiếng Hung Nô cổ, Trần Tinh nghe mà cái hiểu cái không, chỉ biết đại ý là: nhiều năm trước, vua A Khắc Lặc và vua Thiết Lặc đã lập lời thề sống chết có nhau. Tuy nhiên, khi nguồn nước và thức ăn trên thảo nguyên thay đổi, quan hệ giữa tộc Hung Nô và Thiết Lặc lúc tốt lúc không, sau cùng dần bất hòa theo năm tháng, Thuật Luật Ôn và vua A Khắc Lặc cũng từ từ quên mất chuyện này.

 

Có lẽ trong thâm tâm đều nhớ, song không ai chủ động nói ra.

 

Nhưng mỗi lần Thuật Luật Ôn tới phương bắc thị sát, ông sẽ dẫn các võ sĩ tới doanh địa của tộc A Khắc Lặc làm khách mấy ngày, và hai người cũng gặp nhau.

 

“Hắn thích người Hán,” vua A Khắc Lặc thì thào, “Thuật Luật Không con hắn, rất giống cha nó. Họ đều muốn cùng người Hán học rộng thấu lễ, người Hán có tấm lòng thiện lương, người Hán ở phía nam biết đọc sách, vẽ tranh, đánh đàn, người Hán biết ngâm thơ ca tụng vẻ đẹp của sao trời và non núi trên thảo nguyên…”

 

“… Bên nhau cả đời.”

 

Trần Tinh yên lặng lắng nghe, sau đó nói: “Cho nên ông ấy mới yêu Hạng Ngữ Yên.”

 

“Ừ…” vua A Khắc Lặc chậm chạp kể, “hắn đã yêu Hán nữ ấy ngay từ cái nhìn đầu tiên. Mà Thuật Luật Không hồi nhỏ cũng giống như cha nó, thích phía nam, muốn tới Giang Nam, nơi cố hương của mẹ nó, tìm người Hán được định sẵn trong số mệnh của mình, thằng bé ấy không muốn làm Đại Thiền Vu, luôn miệng kể nơi người Hán ngụ đẹp như bí cảnh của tiên nhân, là chốn bồng lai trăm hoa đua nở, nước chảy qua cầu nhỏ…”

 

Trần Tinh bật cười, chườm khăn ướt cho ông, bảo: “Mai này ông sẽ có cơ hội đưa vợ con tới quê bọn ta làm khách.”

 

“Cảm ơn ngươi,” vua A Khắc Lặc chậm rãi nói, “tháng ngày sống ở phía nam, phiền ngươi chăm sóc Thuật Luật Không. Không biết vì sao, ta luôn cảm thấy mình như đã biết ngươi từ trước, ngươi là một đứa trẻ tốt bụng. Thuật Luật Không nhất định đã tìm rất lâu, mới tìm được ngươi, người Hung Nô bọn ta gọi đây là ‘mệnh định’.”

 

Trần Tinh: “…”

 

Dưới tàng cây trên mô đất cao sau cung Cáp Lạp Hòa Lâm.

 

Hạng Thuật thở dài, đột nhiên thấy mệt rã rời, Xa La Phong vẫn cố chấp bảo: “Mấy ngày qua ta vẫn luôn đợi ngươi, ta tưởng ngươi tới phương nam, sẽ không trở về nữa.”

 

Hạng Thuật định thần lại, liếc nhìn Xa La Phong, dùng một câu thơ trên thảo nguyên đáp lại hắn:

 

“Gặp nhau một thoáng chừng thôi, để rồi vĩnh viễn biệt ly. Gió ngừng, tuyết cũng tan.”

 

Xa La Phong biến sắc, bởi câu tiếp theo chính là ‘Ở phương nam xa xôi đó, nơi hoa đào nở, mới là chốn ngọt ngào khiến lòng ta đắm say(*)’, Hạng Thuật vốn muốn nói với Xa La Phong rằng, duyên tới duyên đi, chớ đừng cưỡng cầu, cho dù là bạn thân thì chuyện đến đi âu cũng là thường tình, không ngờ Xa La Phong lại hiểu sai ý.

 

(*) từ gốc là ôn nhu hương

 

“Cho nên đó chính là ‘mệnh định’ của ngươi,” Xa La Phong buồn bã thì thào, “là ôn nhu hương của ngươi.”

 

“Mệnh định gì cơ?” Hạng Thuật tiện tay vỗ lên thân cây, làm lá cây rơi xuống lác đác.

 

Xa La Phong: “Ta nhớ, ta vẫn luôn nhớ. Năm ấy ngươi từng nói, muốn tới quê hương của mẹ ngươi.”

 

“Có sao?” Trên gương mặt tuấn tú của Hạng Thuật xuất hiện một mạt ửng đỏ khó thể nhận ra, nghĩ đến mùa hè năm ấy, khi biết Chu Chân và Xa La Phong bên nhau, Xa La Phong đã hỏi khi nào hắn thành thân.

 

Chiều hôm nọ.

 

Họ câu cá trên sông Tát Lạp Ô Tô, Hạng Thuật trả lời rằng “Ta sẽ luôn đợi người được số mệnh an bài tới.”

 

“Ngươi biết y trông như thế nào chắc?” Khi đó Xa La Phong bất mãn hỏi lại.

 

“Có lẽ là người Hán, hoặc người tái ngoại giống như chúng ta.” Hạng Thuật nhìn chăm chăm vào mặt nước phẳng lặng lấp lánh, dòng sông loang loáng ánh nắng như cõi mộng bao la, “Không quan trọng là tới từ đâu, muốn đi đâu. Y phải giống mẹ ta, nhân hậu, đọc nhiều sách, hiểu biết nhiều, dẫu trải qua bao sự đời bất bình, vẫn giữ được trái tim ấm áp như gió xuân, như đào nở.”

 

Xa La Phong bình tĩnh nói: “Nói tới nói lui, ngươi vẫn thích người Hán. An đáp, ngươi chẳng qua nghe quá nhiều chuyện, muốn quá nhiều thứ của người Hán, mai này ta làm tộc trưởng, sẽ dẫn quân thiết kỵ xuôi nam, đồ ngươi muốn, ta sẽ đem về cho ngươi.”

 

“Ngươi không hiểu, đó là mệnh định của ta.” Hạng Thuật bình thản nói, cuối cùng đứng dậy bỏ đi, để lại Chu Chân và Xa La Phong bên bờ sông.

 

Dưới tàng cây sau cung Cáp Lạp Hòa Lâm.

 

Hạng Thuật đắm chìm trong hồi ức, mãi đến khi tiếng Xa La Phong kéo hắn về thực tại.

 

Xa La Phong mê man nhìn Hạng Thuật, đượm vẻ bi thương: “Chính là tên oắt kia, tên người Hán ngươi mang về sau khi xuôi nam, chính là người ngươi muốn tìm.”

 

“Là y tìm được ta.” Hạng Thuật không định kể với Xa La Phong, nếu không có Trần Tinh, mình đã táng thân trong địa lao âm u rồi, nơi đó không có hoa đào, cũng chẳng có gió xuân, nhưng ngẫm lại hắn vẫn không nói ra, chỉ bâng quơ một câu về tháng ngày xuôi nam, sau cùng bảo: “Do duyên phận cả, ngươi nói đúng, an đáp, Trần Tinh là mẫu người ta thích, không, là ‘người’ ta thích mới phải.”

 

Xa La Phong: “Ồ? Tìm ra người lý tưởng của ngươi rồi? Ngươi muốn thành thân với y ư? Chưa chắc y sẽ đồng ý. Bằng không, cớ sao ngươi còn lo được lo mất? An đáp, ta nhớ khi còn bé, hễ ngươi muốn gì, đều phải dốc sức đoạt lấy, ta thấy y có vẻ chưa chấp nhận ngươi?”

 

Hạng Thuật ngây người, nhíu mày, không ngờ ánh mắt Xa La Phong lại sắc bén như thế, liếc mắt một cái đã nhìn thấu băn khoăn của hắn.

 

“Can hệ gì tới ngươi?” Hạng Thuật thoáng tức giận vì bị Xa La Phong nói toạc tâm sự, chợt nhớ tới giọng nói sau thân cây.

 

“Ta chỉ tình cờ là người hợp với lý tưởng của ngươi, là người ngươi cho rằng mình nên thành thân mà thôi. Ngươi không hiểu, ngươi nên trao chiếc nhẫn này cho… cho người mỗi khi ngươi gặp y, tim sẽ đập loạn nhịp, sẽ muốn tìm cớ trò chuyện với y, thấy y ở bên người khác…”

 

Mỗi lần thấp thỏm muốn bất chấp tỏ tình với Trần Tinh là bên tai hắn lại đột nhiên văng vẳng những lời này, như thể đang khước từ hắn.

 

Rõ ràng Trần Tinh là một người yêu hoàn hảo, tồn tại trong lòng hắn từ bé, bất kể có nhảy vào nước sôi lửa bỏng vẫn nguyện bên nhau trọn đời. Thế nhưng ý nghĩ này vẫn luôn lẩn quẩn trong đầu, không dứt ra được, như đang cảnh cáo mình mọi lúc mọi nơi rằng Trần Tinh chắc chắn sẽ không chấp nhận, không chừng sẽ nói lời tương tự, vô tình cự tuyệt hắn.

 

Hắn luôn vượt qua nhẫn nại mà thăm dò, song chưa từng được hồi đáp, họ chỉ mới quen nhau nửa năm ngắn ngủi, vậy mà Hạng Thuật phảng phất cảm thấy mình đã bị Trần Tinh từ chối cả đời, cảm thụ ấy mới thất bại làm sao.

 

Xa La Phong nói: “Quên người Hán kia đi, nếu y thích ngươi, tự nhiên sẽ nói với ngươi. Ngươi chỉ muốn sống ở phía nam thôi, đúng không? Ta đi với ngươi, Chu Chân đã chết! Ta không muốn gặp lại hắn! Ta sẽ triệu tập người trong tộc, theo ngươi rời khỏi Cáp Lạp Hòa Lâm, chúng ta xuôi nam tới Kiến Khang! Đi Giang Nam! Kêu hoàng đế của bọn họ nhường ngôi, cho ngươi làm vua người Hán!”

 

Hạng Thuật đột nhiên túm cổ áo Xa La Phong: “An đáp!”

 

Xa La Phong thở hổn hển, Hạng Thuật thấp giọng uy hiếp: “Chu Chân từng là người yêu của ngươi! Ngươi phải tự mình đối mặt! Bất kể hắn sống hay chết, ngươi cũng phải cho người trong tộc một câu trả lời hợp lý!”

 

Xa La Phong đẩy Hạng Thuật ra, gần như thẹn quá hóa giận: “Hắn đã biến thành thế kia! Hắn đã không còn là hắn, hắn thậm chí không phải người!”

 

Hạng Thuật cả giận: “Ngươi cũng phải đi gặp hắn! Đích thân tiễn hắn đi!”

 

Ánh mắt Xa La Phong toát lên vẻ sợ hãi, đột nhiên sau thân cây vang lên một giọng nói.

 

“À này…”

 

Trần Tinh lo lắng: “Ta…”

 

Hạng Thuật và Xa La Phong tách ra ngay lập tức, giả vờ như không xảy ra việc gì. Sau một thoáng kinh ngạc ngắn ngủi, Xa La Phong lấy lại tinh thần, lửa giận bốc lên.

 

“Người Hán kia, ngươi nghe lén bọn ta?” Xa La Phong đè một tay lên chuôi đao.

 

Hạng Thuật chắn giữa Trần Tinh và Xa La Phong không dễ nhận ra, nhướng mày kêu Trần Tinh nói.

 

“Ta chỉ muốn nói với huynh, vua A Khắc Lặc đã đỡ hơn nhiều.” Trần Tinh bảo, “Ta chưa nghe gì hết, ta mới tới thôi.”

 

“Ta có thể làm chứng,” con bái kia đang dắt chó của họ đi dạo, chen mồm, “y thực sự mới tới.”

 

Hạng Thuật: “…”

 

Trần Tinh: “Vua A Khắc Lặc có chuyện muốn nói với huynh.”

 

Hạng Thuật liếc Xa La Phong, bình tĩnh đi theo Trần Tinh. Sâu trong tẩm điện, vua A Khắc Lặc đã khôi phục tỉnh táo, đứt quãng kể lại mọi chuyện, quả nhiên có liên quan tới Do Đa. Gần nửa tháng trước, vua A Khắc Lặc phát hiện vết tích hoạt thi xuôi nam, hướng từ Tạp La Sát tới hồ Ba Lý Khôn — nơi hạ trại của tộc A Khắc Lặc.

 

Vua A Khắc Lặc bày trận đón địch, chỉ huy vệ sĩ trong tộc phòng thủ chặt chẽ, thế mà phát hiện thủ lĩnh của Bạt quân chính là con trưởng Do Đa đã được chôn cất trên núi Tạp La Sát sau khi chết.

 

Song mục tiêu của đám Bạt ấy không phải họ. Do Đa chỉ dõi mắt trông cha mình từ xa rồi dẫn lũ Bạt tới hồ Ba Lý Khôn. Vua A Khắc Lặc tức tốc lệnh cho toàn tộc rời khỏi khỏi bờ hồ, di tản lên vùng đất cao cách đó vài dặm, sau đó ông đích thân chạy tới hồ, phát hiện Chu Chân đang làm phép, mở ra cảnh tượng nghĩ đến mà kinh hoàng.

 

“Ông gặp hắn ta rồi sao?” Hạng Thuật siết chặt tay vua A Khắc Lặc.

 

Vua A Khắc Lặc gật đầu, Chu Chân dùng một cái trống bỏi triệu hồi hàng ngàn bộ xương trong hồ. Những bộ xương trắng xanh nào là xương bò, cừu, voi, báo, chim,… lần lượt trồi lên như sóng gợn mặt hồ, dồn lên từng lớp trở thành một đội quân xương trắng.

 

Trần Tinh lập tức nghĩ ngay đến đống xương Chu Chân hồi sinh vào lần trước ở Cáp Lạp Hòa Lâm. Hóa ra đống xương ấy được hắn ta triệu hồi từ trong hồ! Chẳng trách! Mộ trong núi Âm căn bản không thể chôn nhiều xương ngần ấy!

 

Mà đằng sau Chu Chân có một tế đàn, trên tế đàn xuất hiện một thứ gì đó nhô lên như ngọn đồi, được da thú phủ lên.

 

Do Đa cố xông lên đảo công kích Chu Chân, hiềm nỗi binh lực quá ít dẫn đến bị đội quân xương thú đánh lui. Thấy Chu Chân có vẻ muốn bắt Do Đa, vua A Khắc Lặc không kiềm chế được nữa, bèn gia nhập cuộc chiến, giải cứu con mình.

 

Đó là đại chiến giữa Bạt quân và bạch cốt quân, người phàm duy nhất chứng kiến cuộc chiến này chỉ có vua A Khắc Lặc, khung cảnh vô cùng quỷ dị, không có hô giết, mà chỉ có cắn xé lẫn nhau.

 

Do Đa nhân cơ hội tạm thời thoát khỏi chiến trường, Chu Chân bỏ mặc tế đàn trên đảo, đích thân đuổi theo Do Đa. Vua A Khắc Lặc thì bị thương nặng, tận lực tiến về Cáp Lạp Hòa Lâm, cuối cùng hôn mê giữa bụi cây hoang vắng.

 

“Hãy cứu Do Đa.” Vua A Khắc Lặc cầu khẩn.

 

Hạng Thuật nhíu mày, đáp: “Ta đã cử trinh sát, đang truy tìm dọc theo vùng hoang.”

 

Vua A Khắc Lặc gật đầu, chìm vào giấc ngủ say, Trần Tinh biết thuốc đã phát huy tác dụng, nên hai người để ông yên tĩnh nghỉ ngơi. Hạng Thuật dặn dò thủ vệ xong thì cùng Trần Tinh quay về tẩm điện.

 

Sắc trời đen kịt, dùng cơm tối xong, Trần Tinh thấy Hạng Thuật ngồi không yên, ngay cả cậu cũng có chút bất an.

 

“Thứ Chu Chân bảo vệ, sẽ là gì đây?” Hạng Thuật nhíu mày tự hỏi.

 

Trần Tinh cũng bất lực thay, theo vua A Khắc Lặc miêu tả, thứ Chu Chân coi giữ chắc hẳn rất quan trọng, nó dài chừng một trượng, cao khoảng sáu, bảy thước, đặt trên tế đàn như một ngọn đồi, có thể là xác con gì đó? Nhưng bây giờ Vương Tử Dạ đã có một đội quân xương thú, Chu Chân còn đang chuẩn bị cái gì?

 

“Có lẽ là di hài của một con yêu thú,” Trần Tinh suy đoán, “rất có khả năng được dùng để đối phó với Cáp Lạp Hòa Lâm.”

 

Hạng Thuật đứng dậy, Trần Tinh vội vàng nói với hắn: “Huynh ngồi xuống trước đã, ta biết huynh lo cho tộc nhân, song trời tối mịt thế này biết đi đâu tìm?”

 

“Là yêu thú gì?” Hạng Thuật đưa mắt nhìn Trần Tinh.

 

“Ta không biết…” Trần Tinh cau mày, “hướng Tiêu Sơn và Tư Mã Vĩ rời đi đích xác là nơi tộc A Khắc Lặc ở, có lẽ họ sẽ tra ra được gì đó. Hạng Thuật, người trong tộc cần huynh, bây giờ tuyệt đối, tuyệt đối không được rời khỏi Cáp Lạp Hòa Lâm, đừng đi đâu cả, đồng ý với ta đi.”

 

Lần trước Xa La Phong nhập ma, Trần Tinh không cách nào xua đi được, luôn nghi thần nghi quỷ, nhưng chỉ cần Lục Ảnh vẫn còn an toàn, cậu tình nguyện không đi đâu hết, đợi Chu Chân tới công thành. Trải qua trận Bạt loạn ở Trường An, Vương Tử Dạ cần gấp rút bổ sung quân đội mới, hàng chục ngàn kỵ binh các Hồ dũng mãnh và thiện chiến trong thành quả thực chính là vật liệu bổ sung tuyệt vời nhất cho Bạt quân.

 

Hạng Thuật nghe xong điều này như chợt ngộ ra điều gì, liền nhìn Trần Tinh chăm chú.

 

Trần Tinh: “?”

 

Trần Tinh chưa nhận ra, chỉ lo phân tích cho hắn: “Theo mô tả, hình thể thứ này không quá lớn. Có lẽ là thi cốt Chu Chân đào được từ nơi mai táng yêu thú, Vạn Pháp đã quy tịch nhiều năm, phương bắc ắt hẳn có rất nhiều yêu quái… song ta có thể khẳng định, đối thủ của chúng ta tuyệt không phải rồng, rồng không thể nhỏ như vậy.”

 

Hạng Thuật buồn bực, “ừ” một tiếng, Trần Tinh hơi buồn ngủ, từ khi họ trở lại thành, thời tiết lạnh đi trông thấy, vào thu nhiệt độ hạ xuống cực nhanh, gió luồn qua cung điện, lạnh tới mức tê buốt.

 

“Ngủ thôi.” Hạng Thuật nói.

 

Trong cung, chỉ có một căn phòng được quét dọn, gần trăm năm qua không có người ở, Trần Tinh và Hạng Thuật đã quen ngủ trong lều, nên họ dứt khoát cởi đồ, nằm trên chăn đệm đơn sơ trải sẵn dưới sàn.

 

“Huynh cũng ngủ đi,” Trần Tinh nói, “chuyến này huynh là người mệt nhất, tới Cáp Lạp Hòa Lâm còn tất bật không ngừng nghỉ.”

 

Từ lúc trở về Sắc Lặc xuyên, tinh thần hắn căng thẳng tới cực hạn, sau khi vào thành mới dần thả lỏng hơn, hôm qua trước tiên họp với các bộ, bận bịu cả đêm, liền dựa tạm vào một góc trong cung mà ngủ thiếp đi, đêm nay mới được nằm xuống ngủ nghỉ một cách tử tế. Thế là hắn cũng cởi đồ, nằm kế bên Trần Tinh.

 

“Về đêm trời sẽ lạnh lắm,” Hạng Thuật nói, “đợt rét sắp đến, nhớ đắp chồng chăn.”

 

Vì thế Trần Tinh chồng hai chiếc chăn lại, nhích lại gần Hạng Thuật, chợt nhận ra ngoài lần ở Trường An, hầu như lúc nào họ cũng ngủ cùng nhau, có lẽ cái gọi là ‘ra cùng xe, ngồi cùng mâm’ đại thể là như thế. Có thể người Hồ không mấy bận tâm, song theo tập quán của người Hán, thì phải là trúc mã, tình nghĩa đậm sâu mới làm những việc này.

 

Hạng Thuật ngó sang Trần Tinh, kêu cậu nhích lại đây mà ngủ. Gió luồn khắp mọi ngõ ngách trong căn phòng này, mang đến cảm giác lạnh buốt xương. Hạng Thuật nằm xuống không lâu, lại bất an liếc ra ngoài.

 

Gió ngày một lớn dần, gió thổi vù vù kéo đẩy song cửa đã khép chặt va lạch cạch mấy bận, đèn đóm chập sáng chập tối, so với hoang cung xa hoa của Phù Kiên là một cảnh tượng hoàn toàn khác.

 

“Đời sống ở tái ngoại gian khổ,” Hạng Thuật đột nhiên nói, “không sánh được với Trường An, cố chịu vậy.”

 

Trần Tinh thừ người nhìn mái vòm được ánh đèn chiếu sáng, lớp sơn vàng đã phai màu từ lâu, nhưng vẫn mơ hồ nhận ra những vết tích huy hoàng thời kỳ hưng thịnh trong hoàng cung Hung Nô của Long Thành trước đây.

 

Trần Tinh bỗng dưng bật cười, Hạng Thuật nghiêng đầu khó hiểu nhìn cậu, tầm mắt hai người va vào nhau, gò má Trần Tinh chợt ửng đỏ.

 

“Vì sao,” Trần Tinh ngẫm nghĩ một thoáng rồi hỏi, “mọi người không chuyển tới Cáp Lạp Hòa Lâm, mà chọn Sắc Lặc xuyên?”

 

Trần Tinh nhớ Thuật Luật gia có rất nhiều tiền, nếu dời tới Cáp Lạp Hòa Lâm, tu sửa hoàng cung một cách hẳn hoi, họ sẽ có chỗ ở cố định, không còn phải sống kiếp du mục nữa.

 

Hạng Thuật đáp: “Do khí hậu.”

 

Trần Tinh “À” một tiếng, Hạng Thuật khó chịu cục cựa dưới chăn, chốc sau dứt khoát nằm nghiêng, mặt hướng về Trần Tinh, tim Trần Tinh đập thình thịch, cũng nghiêng người gối lên tay mình.

 

Thế là cả hai quay mặt vào nhau, nhìn chăm chú đối phương.

 

Hạng Thuật nhìn vào mắt Trần Tinh, chuyên chú bảo: “Tái ngoại sẽ có mấy năm rét lạnh, kèm theo tuyết tai, thời điểm lạnh nhất là ‘hàn tuế’, trong năm đó phải có tới bảy tám tháng không thể chăn thả.”

 

“Ồ.” Trần Tinh hết sức ngạc nhiên.

 

“Phần lớn bò cừu chết cóng…” Hạng Thuật đổi tư thế, gác đầu lên tay giống Trần Tinh, cong gối, chân trần vô tình đụng vào Trần Tinh bên dưới lớp chăn. Chân Hạng Thuật to và ấm áp cực, cả người tản ra hơi thở nóng rẫy cuốn Trần Tinh vào vùng ấm cúng giữa cái lạnh thấu trời.

 

“… Nước sông đóng băng, ranh giới giữa sông và băng ngày một giảm,” Hạng Thuật xuất thần miêu tả, “ngay cả chim trời cũng ít đi trông thấy, vào năm lạnh nhất, thậm chí không có chim nhạn bay qua Trường Thành.”

 

“Ra là vậy.” Trần Tinh hoàn toàn không biết điều này.

 

“Vì vậy tám mươi năm trước, Lưu Uyên mới vượt Trường Thành, nhập quan cướp phá.” Hạng Thuật nói, “Người Hung Nô là lớp đầu tiên sống không nổi. Cáp Lạp Hòa Lâm lại còn nằm ở vùng gió lùa của Quảng Nguyên xuyên, một khi gió nổi lên, sẽ gặp đợt rét giống hôm nay, không thích hợp cư ngụ lâu dài.”

 

Trần Tinh tiếp lời: “Chỉ có Sắc Lặc xuyên được bao bọc bởi ba mặt núi, mới có thể chống chọi rét lạnh.”

 

“Ừ.” Hạng Thuật đáp, “Họ đều muốn di tản sang nam, nhập quan chém giết người Hán các ngươi.”

 

Trần Tinh an tĩnh nhìn Hạng Thuật, chợt hỏi: “Huynh muốn đi không?”

 

“Ngươi nói xem?” Hạng Thuật nghe vậy có chút mất hứng, hỏi ngược lại.

 

Trần Tinh: “Ta chỉ hỏi ‘Huynh có muốn tới phía nam không’, không phải ‘Muốn đi cướp không’.”

 

Hạng Thuật: “…”

 

Trần Tinh: “Ta đương nhiên biết huynh không phải hạng người đó.”

 

Cậu cảm nhận được Hạng Thuật cũng thích phía nam.

 

“Sau này ta sẽ dẫn huynh tới Kiến Khang,” Trần Tinh nói, “khác với phía nam mà huynh từng thấy.”

 

“Vì sao chắc chắn ta sẽ đi cùng ngươi?” Hạng Thuật bình tĩnh hỏi, “Cô vương là Đại Thiền Vu, phải nuôi rất nhiều tộc nhân, không phải nói đi liền đi.”

 

Trần Tinh: “Huynh có thể tới làm khách mà.”

 

Hạng Thuật: “Chẳng phải nhà ngươi ở Tấn Dương à?”

 

Trần Tinh nghĩ ngợi một thoáng, đang định giải thích thì Hạng Thuật thình lình giật tay trái, thò ngón út ra ngoài chăn, Trần Tinh bật cười ngoéo tay với hắn.

 

Hạng Thuật nhìn vào đôi mắt Trần Tinh, nói: “Mắt ngươi đen láy, giống như mẹ ta vậy.”

 

“Chẳng phải huynh cũng thế sao?” Trần Tinh nói, “Mắt huynh, a! Mắt huynh có ánh vàng này!”

 

Trước kia Trần Tinh rất hiếm khi để ý, song vào lúc này, khi cả hai gần trong gang tấc, cậu chợt phát hiện trong đôi ngươi sâu thẳm của Hạng Thuật ánh lên sắc nâu vàng nhỏ xíu, không nhìn kĩ sẽ không nhận ra.

 

Trần Tinh dựa vào gần hơn, hô hấp Hạng Thuật trở nên dồn dập, rũ mắt nhìn vào môi cậu, một lúc sau Hạng Thuật bị Trần Tinh nhìn tới mức phát ngượng, bèn nhắm mắt quay đầu đi, đan tay đặt trước ngực, nói: “Ngủ đi.”

 

Trần Tinh hơi nhích qua chỗ Hạng Thuật, dựa vào vai hắn, Hạng Thuật không chủ động vươn tay ôm cậu như lần trước. Nhưng tiếng gió ngoài cung nghe như tiếng gió biển trên thuyền ngày đó, dập dờn từng cơn làm cõi lòng cậu không khỏi xao động.

 

Cậu rất muốn rướn tới hôn lên má Hạng Thuật, gần như phải cố hết sức mới kìm nén được ý niệm này, quá khứ thảng như một kiếp mộng phù du, nhưng đều đã là chuyện đời trước. Trần Tinh không biết kiếp trước tình cảm của Hạng Thuật bắt đầu từ đâu, song hôm nay lời của vua A Khắc Lặc đã khiến cậu rung động cực mạnh.

 

Hạng Thuật cũng giống như Thác Bạt Diễm, khao khát có một người yêu là người Hán ư? Vậy chẳng khác nào lời chối từ Thác Bạt Diễm vào tiết mộ thu, cũng là đang cự tuyệt Hạng Thuật?

 

Giá như đảo ngược thời gian, Trần Tinh lúc trước nhất định sẽ nói rõ với Hạng Thuật, chuyện không phải như thế! Thậm chí cậu còn nguyện lòng hôn hắn, bất chấp hậu quả bị đánh. Chỉ cần một nụ hôn, không cần nói điều gì, giao hết thảy lựa chọn cho Hạng Thuật. Nhưng sự đã tới nước này, Trần Tinh không còn dũng khí đó nữa, hận sao mình lại hèn nhát đến thế.

 

“Ta đã mơ rất nhiều.” Hạng Thuật không nhận ra nỗi băn khoăn của cậu, đột nhiên nói.

 

“Hở?” Trần Tinh vừa mới hạ quyết tâm, đến gần thêm chút nữa thì bị câu nói của Hạng Thuật cắt ngang suy nghĩ.

 

Hạng Thuật không mở mắt, hàng mi lấp lóe dưới ánh đèn mờ ảo, tiếp tục nói: “Nói là mơ cũng không đúng, phảng phất như nằm mơ trong ngục tối, nhưng ngẫm lại có khi còn sớm hơn, không nhớ rõ, rất khó để nói.”

 

“Huynh mơ thấy gì?” Trần Tinh hỏi.

 

“Nhiều lắm.” Hạng Thuật mở mắt ra, nghiêng đầu, nghi hoặc nhìn Trần Tinh: “Mơ thấy không biết tại sao ta đuổi theo ngươi, rời khỏi Sắc Lặc xuyên, và khi trở về, Sắc Lặc xuyên đã bị thiêu rụi…”

 

Trần Tinh: “!!!”

 

“Còn mơ thấy cổ thụ đính ước ở Sắc Lặc xuyên.” Hạng Thuật nói, “ngày thứ hai sau tiết mộ thu, ngươi cũng ở Sắc Lặc xuyên, và rồi tuyết rơi.”

 

Tim Trần Tinh đập ngày càng mãnh liệt, thầm nhủ huynh ấy nhớ ra rồi! Huynh ấy có thể nhớ ra toàn bộ không?!

 

Cậu không dám ngắt lời Hạng Thuật, để hắn tự nhớ lại, biết đâu chừng trong đêm đen gió lạnh gào rít này, Hạng Thuật sẽ đột nhiên triệt để giác ngộ, nhớ ra quá khứ!

 

Nhưng đợi một hồi vẫn không nghe Hạng Thuật trả lời, Trần Tinh dè dặt truy hỏi: “Rồi sao nữa?”

 

Hạng Thuật lầm bầm: “Còn mơ thấy Thác Bạt Diễm tặng nhẫn cho ngươi, rốt cục chuyện gì đang diễn ra?”

 

Trần Tinh thầm nhủ huynh nhớ chuyện khác thì cũng thôi, cớ sao đã qua một kiếp mà vẫn không quên ghen với Thác Bạt Diễm vậy hả?

 

“Khi còn nhỏ ta từng nghe mẹ kể,” Hạng Thuật ngẫm nghĩ rồi bảo, “phương bắc có một vị hươu thần, bảo hộ giấc mộng nhân gian. Không biết có thể tìm nó hỏi rõ nguồn cơn không… Mà thôi, có dịp rồi nói.”

 

Trần Tinh nghĩ đến những gì Mộ Dung Xung thuật lại cũng có liên quan tới ‘mộng cảnh’, khi ký ức rõ ràng, người ta có thể nhớ về quá khứ, mà khi mơ hồ, liền hóa cõi mộng. Không chừng Lục Ảnh thực sự có thể giải quyết việc này?

 

Gió càng lúc càng lớn, gối ngủ trên tiếng gió trái lại còn thoải mái hơn, Trần Tinh mệt mỏi liên tiếp mấy ngày, chẳng mấy chốc đã ngủ bất tỉnh nhân sự, Hạng Thuật cũng ngủ say, nhưng vừa hửng ánh bình minh, tiếng huyên náo bên ngoài đã đánh thức hai người.

 

“Bắt được một tên gian tế!” Người bên ngoài hét lên.

 

Hạng Thuật ngồi dậy ngay tắp lự, Trần Tinh vẫn còn buồn ngủ, một trinh sát tiến vào, thấy bọn họ vừa mới dậy, Hạng Thuật để trần nửa người, chắn trước mặt Trần Tinh, gã không dám nhìn nữa, cuống quít cúi người, báo cáo: “Đại Thiền Vu, bọn ta bắt được tên này ở Sắc Lặc xuyên.”

 

Tiếp theo, Thác Bạt Diễm bị trói gô được áp giải vào.