- Dĩ nhiên là không, cô ta không có gì đặc biệt đáng chú ý, chỉ là đồ ngu ngốc vụng về như con què. Nhưng cô sẽ rất ngạc nhiên khi biết cô ta sắp thành geisha còn cô thì không bao giờ.
Tôi thấy Hatsumono không thể tìm ra được điều gì để nói với tôi độc ác hơn điều cô đã nói. Từ một năm rưỡi nay tôi đã bị giao công việc nặng nhọc như một con ở. Tôi cảm thấy đời tôi đang đi theo một con đường vô định. Tôi không muốn thành geisha, nhưng tôi cũng không muốn làm tôi tớ mãi. Tôi đứng trong vườn của trường học một lúc lâu, nhìn các cô gái cùng tuổi với tôi chuyện trò vui vẻ với nhau khi họ đi qua trước mặt tôi. Chắc họ trở về nhà ăn trưa, nhưng đối với tôi, họ đi từ một công việc quan trọng này đến một việc quan trọng khác trong một cuộc sống có mục đích, còn tôi thì trái lại , tôi phải quay về với công việc lau chùi các viên đá trong sân, làm những công việc quá hèn hạ. Khi trong vườn hết người, tôi lo sợ nghĩ rằng đây là cái điềm báo trước mà tôi chờ đợi – nó báo cho biết các cô gái kia ở Gion sẽ tiến lên và để tôi lại đàng sau. Cái ý nghĩ này khiến tôi khiếp sợ, làm cho tôi không thể ở lại trong vườn một mình được nữa. Tôi đi vào đại lộ Shijo, rồi đi qua con sông Kamo. Những tấm bích chương khổng lồ nơi nhà hát Minamiza, quảng cáo buổi trình diễn vở kịch của Kabuki vào chiều ấy có tên Shirabaku. Đây là vở kịch nổi tiếng nhất của chúng tôi mặc dù lúc ấy tôi không biết gì về Kabuki hết. Từng đoàn người bước lên thềm vào rạp hát. Ở đây, tôi thấy cuộc sống sôi động diễn ra quanh tôi. Tôi vội vã đi ra khỏi đại lộ, rẽ vào một con đường khác chạy dọc bờ sông Shirakawa, nhưng ngay ở đây, các ông và các nàng geisha cũng đi tấp nập, cuộc đời của họ có mục đích để hướng đến. Để khỏi đau đớn khi nhìn thấy cảnh tượng này, tôi đi ra phía bờ suối Shirakawa, nhưng độc ác thay, ngay cả nước trong dòng suối cũng đang chảy đến một nơi nào đấy có mục đích – nó chảy về phía sông Kamo rồi từ đó đổ ra vịnh Osaka và vào Nội hải . Hình như ở đâu cũng có điều mách bảo có điều gì đó đang chờ đợi tôi. Tôi đứng tựa lưng vào bức tường đá nhỏ bên dòng suối mà khóc. Tôi là hòn đảo bị bỏ rơi ở giữa đại dương, không quá khứ cũng không tương lai. Tôi cứ nghĩ ở đây không có bóng người, bỗng tôi nghe có tiếng đàn ông cất lên:
- Trời ơi ai lại đau khổ khi cuộc đời tươi đẹp như thế này.
Thường thường đàn ông đi trên phố Gion không có ai thèm để ý đến tôi, nhất là khi tôi đang khóc như một kẻ điên khùng như thế này. Nếu ông ta thấy, chắc không đời nào ông ta nói với tôi, trừ phi ra lệnh cho tôi tránh đường cho ông ta đi, hay đại lọai như thế. Thế nhưng ông ta đã nói với tôi, mà còn nói một cách rất tử tế. Ông ta nói với tôi như người thân quen – có lẽ như nói với con gái của một người bạn tốt. Bỗng dưng tôi thấy trước mắt tôi như có một thế giới khác hiện ra, khác với thế giới mà tôi đang sống, một thế giới mà nơi đó tôi được đối xử công bằng, thậm chí với lòng tốt nữa - một thế giới mà người cha không đem bán đứa con gái đi. Tiếng ồn ào huyên náo của những người đang sống có mục đích bỗng nhiên dừng lại, hay ít ra tôi không quan tâm đến. Và khi tôi ngước mắt nhìn người đàn ông đã nói với tôi, tôi có cảm giác sự khổ đau của tôi biến đâu mất.
Tôi rất sung sướng miêu tả ông ta cho anh nghe, nhưng tôi chỉ nói một cách đơn giản thôi - bằng cách nói cho anh nghe về một cái cây mọc trên bờ núi đá ven biển ở Yoroido. Thân cây này trơn láng vì gió, vì mưa, và khi tôi lên bốn hay năm gì đấy, một hôm tôi thấy trên thân cây có hình thù giống khuôn mặt một người đàn ông. Khuôn mặt hơi nghiêng về một bên nhìn tôi đăm chiêu. Khuôn mặt nhìn tôi như người đàn ông tự tin về vị trí của ông ta trên cõi đời này, như cái cây rất tự tin về vị trí của nó vậy. Đường nét trên khuôn mặt ấy có vẻ trầm tư, tôi mường tượng ra đấy là khuôn mặt của Đức Phật.
Người đàn ông nói với tôi trên đường hôm ấy có khuôn mặt rộng và trầm tĩnh như thế, và có điểm đặc biệt hơn nữa là nét mặt ông ta rất hài hòa, thanh khiết. Tôi có cảm giác ông ta sẽ đứng đấy cho đến khi tôi hết đau khổ. Ông ta vào khoảng 45 tuổi, mái tóc muối tiêu chải ngược ra sau. Nhưng tôi không thể nhìn ông ta lâu được, ông ta có vẻ quá sang trọng đối với tôi, khiến cho tôi đỏ mặt, quay đi nhìn chỗ khác.
Hai thanh niên đứng một bên ông, bên kia là một cô geisha. Tôi nghe nàng geisha bình tĩnh nói với ông:
- Này, cô ta chỉ là con ở thôi! Có lẽ khi đi làm công việc, cô ta vấp ngón chân vào đá. Em nghĩ sẽ có người nào đấy đến giúp cô ta.
- Cô Izuko, - ông ta nói - ước gì cô có lòng nhân từ.
- Buổi trình diễn sắp bắt đầu rồi, ông Chủ tịch à. Ông không nên phí thời giờ…
Trong lúc đi làm các công việc lặt vặt ở Gion, tôi thường nghe đàn ông được gọi bằng chức phận như Trưởng phòng, hay thỉnh thoảng Phó giám đốc, nhưng hiếm có ai được gọi là ông Chủ tịch. Thường thì những ai được gọi là Chủ tịch đều có đầu hói, ra đường đi nghênh ngang và có cả đám nhân viên lau chau đi theo sau. Người đàn ông trước mặt tôi rất khác xa với các ông Chủ tịch thường thấy, ngay cả một cô gái ít kinh nghiệm về cuộc đời như tôi, tôi cũng còn thấy thế.
- Chắc cô nói nếu tôi dừng lại đây để giúp cô ta là phí thì giờ vô ích chứ gì? – ông Chủ tịch nói.
- Ồ phải – cô geisha nói – ta đâu còn thì giờ nhiều để nói chuyện tầm phào. Chúng ta đã trễ xem màn đầu rồi.
- Này cô Izuko, chắc chắn có lúc cô đã lâm vào tình trạng như cô bé này. Cô đừng quả quyết cuộc đời của một geisha lúc nào cũng đơn giản. Tôi nghĩ giới các cô…
- Em mà lâm vào tình cảnh như cô gái này à? Ông Chủ tịch, bộ ông muốn nói em phải phơi mặt ra ngoài đường sao?
Nghe thế, ông Chủ tịch quay qua hai thanh niên đi bên cạnh yêu cầu họ đưa Izuko đến nhà hát trước. Họ chào ông rồi bước đi, còn ông nán lại với tôi. Ông ta nhìn tôi một hồi lâu nhưng tôi không dám nhìn lại ông. Cuối cùng tôi nói:
- Thưa ngài, cô ấy nói thế đúng đấy. Tôi chỉ là một con điên. Xin ngài đừng vì tôi mà đến trễ.
- Cô hãy đứng yên một lát xem – ông ta nói.
Tôi không dám không vâng lời ông ta, nhưng tôi không biết ông muốn gì. Thì ra ông chỉ lấy khăn trong túi áo lau để những hạt cát dính trên mặt tôi. Đứng gần bên ông, tôi ngửi thấy mùi phấn thơm trên làn da láng lẩy của ông, việc này khiến tôi nhớ lại ngày người cháu trai của Hoàng đế Taisho đến thăm làng đánh cá của chúng tôi. Ông ta chỉ có việc bước ra khỏi xe hơi, đi đến con vịnh nhỏ, rồi đi lui, gật đầu chào đám đông quỳ trước mặt ông ta, trên người mặc bộ âu phục, - bộ âu phục tôi thấy lần đầu – vì tôi đã nhìn vào ông, mặc dù không được phép. Tôi còn nhớ bộ râu mép của ông được chăm sóc rất kỹ, không giống tóc tai của dân trong làng, bờm xờm như cỏ dại mọc bên đường. Trước đó chưa có một nhân vật quan trọng nào đến làng chúng tôi hết. Tôi nghĩ lúc đó mọi người đều cảm thấy xúc động trước vẻ cao quý của người cháu của Hoàng đế.
Trong cuộc sống, chúng ta thường gặp những việc mà chúng ta không hiểu, vì chúng ta chưa bao giờ thấy những việc giống như thế. Việc ông Chủ tịch tốt với tôi cũng là một chuyện như vậy. Sau khi lau cát và nước mắt trên mặt tôi, ông nâng cằm tôi lên và nói:
- Cô em xinh đẹp như thế này…chẳng có gì trên đời này làm cho cô phải xấu hổ hết. Thế mà cô sợ không dám nhìn vào tôi. Hẳn người ta đối xử với cô độc ác quá, hay là cuộc đời quá độc ác.
- Tôi không biết thưa ngài – tôi đáp, nhưng dĩ nhiên ông ta nói quá đúng.
- Chúng ta không mấy ai gặp được người tốt trên đời này như lòng mình mong muốn – ông ta nói rồi nheo mắt một lát như thể nói tôi hãy suy nghĩ về điều ông ta vừa nói.
Tôi chỉ muốn nhìn lâu vào làn da mặt mịn màng của ông ta một lần nữa, với bộ lông mày rậm, hàng lông mi mướt như nhung trên cặp mắt dịu dàng, nhưng giữa hai chúng tôi có một cái hố ngăn cách về xã hội thật lớn. Cuối cùng tôi nhìn lên, nhưng tôi thẹn thùng quay mặt đi chỗ khác rất nhanh, đến nỗi chắc ông không thể nào biết được tôi đã nhìn vào mắt ông. Nhưng làm sao tôi có thể miêu tả được những cái tôi đã thấy lúc ấy? Ông ta nhìn tôi như người nhạc sĩ nhìn nhạc cụ của mình trước khi bắt đầu chơi nhạc, với vẻ thành thạo và tự chủ. Tôi cảm thấy ông ta hiểu tôi như thể tôi là một phần thể của ông. Tôi ước ao được làm nhạc cụ cho ông biết bao!
Bỗng ông thọc tay vào túi lấy ra cái gì đấy.
- Cô em thích mận ngọt hay dâu? – ông ta hỏi .
- Ngài nói gì? Ngài muốn nói…ăn à?
- Hồi nãy tôi có gặp người bán hàng rong, bán xi rô đá bào. Hồi còn nhỏ tôi rất thích ăn thứ ấy, nhưng khi đã trưởng thành rồi mới được ăn. Cô hãy cầm lấy một đồng tiền để mua một ly mà ăn. Cô lấy luôn cái khăn của tôi để lau mặt sau khi ăn xong – ông ta nói xong, bỏ đồng tiền vào giữa cái khăn, gói lại thành một gói, và đưa cho tôi.
Từ lúc gặp ông Chủ tịch, tôi quên chuyện tôi đang chờ đợi dấu hiệu báo cho biết tương lai của tôi. Nhưng khi tôi thấy cái gói trong tay, nó giống gói vải liệm con bướm, tôi nghĩ cuối cùng tôi đã gặp dấu hiệu báo trước tương lai. Tôi cầm lấy cái gói, cúi người chào cám ơn ông ta, cố nói cho ông ta biết tôi rất biết ơn ông – nhưng tôi nghĩ những lời tôi nói ra không bộc lộ hết đầy đủ tình cảm biết ơn của tôi lúc ấy. Tôi không cám ơn vì ông ta cho tôi đồng tiền, cũng không cám ơn việc ông ta đứng lại để giúp tôi, mà tôi cám ơn là vì...ờ, vì việc mà tôi không biết bây giờ tôi có thể giải thích được không. Tôi nghĩ vì ông đã chỉ cho tôi thấy rằng bên cạnh sự độc ác vẫn còn cái gì đấy ta có thể tìm được trong thết gian này.
Tôi nhìn ông đi mà lòng đau như cắt – nhưng là một nỗi đau dễ chịu , nếu có loại đau như thế. Tôi muốn nói rằng nếu anh được sống một buổi tối thú vị hơn bất cứ buổi tối nào khác, thì chắc thế nào anh cũng thấy buồn khi buổi tối thú vị ấy chấm dứt. Trong cuộc gặp gỡ ngăn ngủi với ông Chủ tịch, tôi đã thay đổi từ một cô gái lạc lõng trước cuộc đời trống rỗng thành một cô gái có cuộc sống có mục đích. Điều này nghe có vẻ khó tin nhưng với tôi nó là sự thật.
Khi ông Chủ tịch đã đi khỏi tầm mắt của tôi, tôi chạy ra phố tìm người bán đá bào rong. Hôm ấy trời không nóng, và tôi cũng không thích đá bào, nhưng tôi muốn ăn để cuộc gặp gỡ của tôi với ông Chủ tịch được lâu bền. Vì thế tôi mua một ly giống hình nón có đá bào và xirô dâu và đến ngồi trên mặt tường để ăn. Hương vị xirô thơm tho, dịu ngọt, tôi nghĩ thế vì lòng tôi rất hưng phấn. Nếu tôi là nàng geisha Izuko, tôi nghĩ, có lẽ ông Chủ tịch đã ở với tôi. Tôi không nghĩ đến việc ganh tị với người geisha. Bây giờ tôi đã hiểu điều mà tôi không nhận thấy, tôi phải là geisha. Bây giờ tôi thấy điều này như là con đường dẫn đến một cái gì đấy. Nếu tôi nghĩ đúng về tuổi của ông Chủ tịch, thì có lẽ ông ta không quá 45. Nhiều geisha thành công rực rỡ vào tuổi 20, cô geisha Izuko có lẽ không quá 25. Tôi còn bé, gần 12…nhưng trong 12 năm nữa, tôi sẽ 24 tuổi. Và khi ấy ông Chủ tịch được bao nhiêu? Chắc lúc ấy ông không già hơn ông Tanaka bây giờ.
Đồng bạc ông ta cho tôi uống một ly xirô không hết. Người bán hàng rong thối lại cho tôi ba đồng bạc loại khác. Thoạt tiên tôi định cất lại, để khi khác dùng, nhưng bỗng tôi nghĩ cách để dùng chúng vào việc quan trọng hơn.
Tôi ra đại lộ Shijo, đi về cuối đường nằm ở phía Nam của Gion, ở đấy có một ngôi đền thờ thần. Tôi bước lên bậc thềm, lòng quá lo sợ không dám bước dưới chiếc cổng đền xây hai tầng có mái đầu hồi, nhưng tôi cũng cứ đi. Qua một cái sân rải sỏi đi lên những bậc cấp khác, tôi đi qua cổng chính vào đền. Tôi đến thùng pháp sương ném mấy đồng bạc còn lại vào thùng – số tiền tôi có thể dùng để trốn khỏi Gion – và chắp tay vái ba lần trước các tượng thần, báo với các ngài tôi đến đây để cầu nguyện. Mắt nhắm nghiền, hai tay chắp vào nhau, tôi cầu nguyện thần phò hộ cho tôi trở thành geisha. Tôi nguyện sẽ cố gắng khổ luyện, chịu đựng gian nan, để có cơ may lôi cuốn được sự chú ý của một người như ông Chủ tịch.
Khi tôi mở mắt ra, tôi nghe tiếng xe cộ chạy trên đại lộ Higashi Oji, gió vẫn thổi rì rào trong hàng cây. Không có gì thay đổi. Còn việc thần linh có nghe tôi cầu nguyện hay không, tôi không biết. Tôi nhét cái khăn của ông Chủ tịch vào trong áo, mang theo về nhà kỹ nữ.