Bảyngày sao đó, vào một sáng mùa hạ rực rỡ, chúng tôi lên chiếc xe ngựa tiện dụngcủa Rajiva, thẳng tiến về hướng Thiên Phật động chỉ cách Kucha chừng bảy mươidặm, xe ngựa của Rajiva lại là cỗ xe rất tốt, nên chỉ mất hai ngày là đến nơi.Có điều, phải ngồi chung với Rajiva trong một khoảng không gian hẹp như vậy,không thoải mái chút nào. Ánh mắt chạm đến đâu cũng là hình ảnh của cậu ấy:Rajiva lúc điềm nhiên, Rajiva lúc mỉm cười, Rajiva nho nhã, lịch thiệp, Rajivavới ánh mắt hút hồn. Đôi mắt tôi, tựa như chuếc máy ảnh tám triệu pixel, liêntực giữ những khung hình của cậu ấy. Giá như tôi có được một bức ảnh của Rajivathì tuyệt biết mấy, như thế lúc quay về tôi sẽ có kỷ vật để mà hồi tưởng lại.Quay về? Đúng rồi, sớm muộn gì tôi cũng phải quay về, thế nên tốt nhất đừnglãng phí và tình cảm thêm nữa.
Nào hãytập trung tinh thần, dẹp bỏ mọi ảo tưởng, kiên quyết tránh xa sức hấp dẫn của"Chàng đẹp trai" và hoàn thành cho tốt bổn phận của mình.
Quyếttâm như vậy, nên khi xe ngựa dừng lại nghỉ ngơi, tôi làm ngơ bàn tay đang chìara muốn đỡ tôi xuống, tôi thờ ơ, tự tìm cách nhảy khỏi xe. Lúc ăn uống, tôi tựphục vụ bản thân, kiên quyết không để tái diễn tình trạng lười biếng lúc trước,ỷ lại vào đôi tay của cậu ấy. Lúc gặm xong miếng bánh khô Tây vực, tự mình lausạch những vụn bánh vương vấn trên mép, kiên quyết không nhận lấy mảnh khăn nhỏtừ tay cậu ấy và để mặc đôi tay ấy phải ngượng ngùng thu về. Lúc ngồi lên xe,không có cách gì tránh né, tôi đành nhắm nghiền mắt lại, nghỉ ngơi lấy sức,buồn ngủ cũng kiên quyết không gục xuống, tránh khi tỉnh dậy lại thấy mình lấytay cậu ấy làm gối
Có phảilà ảo giác của tôi hay không? Một tiếng thở dài khe khẽ, buồn bã trôi đến taitôi. Trái tim tôi như thắt lại…
Cuốicùng cũng tới Kizil. Tôi lấy làm khâm phục sự kiên cường của bản thân, suốt haingày trong không gian riêng biệt chỉ có hai người, cái không gian nhỏ hẹp khôngkhỏi khiến người ta điên đảo, vậy mà tôi vẫn kiên trì nguyên tắc của mình, kiênquyết không để nảy sinh tình cảm với người cổ đại. Đó là lời răn dạy của sếptrước mỗi lần tôi vượt thời gian: Phải luôn ghi nhớ, em là người hiện đại, emsẽ phải quay về thời đại của mình, phải luôn nhắc nhở bản thân, nếu nảy sinhtình cảm nam nữ, lịch sự rất có thể sẽ vì em mà thay đổi…
Nhưngkhi trước mắt tôi là ngọn núi Karadag hùng vĩ đang tắm gội dưới ráng chiềuhuyền ảo, dãy hang đá dài bất tận với những cửa động đều thẳng tắp, những chiếcthang gỗ cao chất ngất với những hành lang bí ẩn len lỏi qua các hang đá, thìnhững thứ quá ư mệt mỏi như tình cảm hay cảm xúc này nọ, đã trôi tuồn tuột rakhỏi đầu tự lúc nào không hay.
Tối hômđó, tôi được sắp xếp ở lại trong một quán trọ ven sông Muzat. Nghe nói họ dànhcho tôi căn phòng tốt nhất, tuy vậy điều kiện vệ sinh không ổn cho lắm, may màtôi đã chủ động mang theo túi ngủ tiện dụng. Buổi tối bên sông Muzat, không khítrong lành, thoáng đãng như vừa gột rửa, nền trời ngàn sao lấp lánh. Không giantựa như vô trùng này mang lại cảm giác sảng khoái, dễ chịu thật đặc biệt. Tôivốn định lang thang, dạo mát ven sông, nhưng bóng dáng cao gầy ấy cứ chậm rãi,lặng lẽ bước theo tôi, khiến tâm tư tôi không khỏi xao động. Không biết phảilàm sao, tôi đành dằn lòng quay gót, rảo bước về phòng, bỏ lại bóng dáng ấy chơvơ giữa dòng sông vằng vặc ánh trăng.
Ngàyhôm sau đến chùa, đúng như tôi dự đoán, rất nhiều người nhận ra Rajiva. ChùaKizil đã thu hút đông đảo các hòa thượng từ khắp nơi đến đây tu hành, phòng đádành cho các tăng sư tọa thiền đã kín chỗ. Tất cả mọi người đều nhìn Rajiva vớiánh mắt kinh ngạc, thậm chí, hình như có chút gì đó kinh miệt. Không không,không thể như thế được. Làm sao người ta có thể khinh miệt Rajiva chứ! Chắcchắn tôi đã nghiêm trọng hóa vấn đề lên thôi! Vị sư trụ trì chào đón Rajiva rấtnồng nhiệt, sau đó đưa cậu ấy đến một căn phòng thiền đặc biệt, đã được dọn dẹpsạch sẽ. Sao lại như vậy? Lẽ ra mọi người phải sôi nổi vây quanh Rajiva và sôinổi luận đàm về Phật pháp với cậu ấy mới đúng chứ? Sao lại để cậu ấy ngồi thiềnmột mình trong căn phòng đá vắng lạnh kia? Tôi đưa mắt quan sát và nhận thấy,tăng sư trong các phòng khác cũng ngồi im lìm một chỗ, cả ngày không bước chânra ngoài. Tuy có hơi băn khoăn, nhưng tôi nghĩ rằng chắc mình không hiểu sâunhững phép tắc, quy định, luật lệ của nhà Phật, vả lại nói cho cùng thì, thứthu hút tôi đến đây là những bức họa kia mà. Nghĩ vậy, tôi đã đẩy mọi nghi hoặcra khỏi đầu.
ThiênPhật động Kizil có tất cả hai trăm ba mươi sáu hang đá được đánh dấu theo thứtự. Trong đó có khoảng tám trăm hang đá còn lưu giữ được các bức vẽ trên tường.Phần lớn hang đá là những căn phòng nhỏ ngồi thiền của nhà sư theo tông pháiPhật giáo Tiểu Thừa. Khi còn ở thế kỷ XXI tôi đã từng khảo sát di tích này.Trong các phòng thiền không có tranh vẽ, chỉ có một chiếc giường đá rất lạnh,nhỏ và hẹp. Thời cổ đại, phải đào bới và đục đẽo hang đá bằng tay, nên rất giannan và chi phí cũng rất tốn kém. Thời gian đầu xây dựng chùa, mọi phí tổn đềudo đức vua Khâu Từ quyên tặng. Cho đến thời điểm tôi đang có mắt ở đây, ngôichùa cũng mới chỉ có ba hang đá có các bức bích họa và tám phòng tiền, trong đóhai hang đá trang trí họa bích vẫn chưa hoàn thiện, các nghệ nhân vẫn đang tấtbật với công việc vẽ tranh của mình.
Hấp dẫnquá! Đây là một đề tài tuyệt vời! Chỉ cần bạn chọn ra một trong số các côngđoạn: Chọn màu tạo màu, sắp xếp hoa văn họa tiết, hay công đoạn vẽ, hay các câuchuyện Phật giáo trên các bức vẽ, bạn sẽ có được một bài luận xuất sắp với giátrị học thuật cao. Một dịp tham quan di tích lịch sử vương triểu Guge thuộcvùng Nagari (nay là huện Zanda, Nagari, Tây Tạng), tôi tình cờ gặp một tổ chứctừ thiện của Liên Hợp Quốc trong một ngôi chùa cổ từ tám trăm năm trước. Họđang mải mê với các công việc phục chế miễn phí các bức bích họa đã được sápxếp và di sản thế giới. Tôi nghển cổ lên trò chuyện với một nghẹ nhân nữ ngườiThụy Sĩ đang quỳ trên giá đỡ ở trên cao. Cô cho tôi xem bộ đồ nghề của mình:Những chiếc bút lớn nhỏ đủ mọi kích cỡ, những chiếc xẻng và những chiếc kẹpnhỏ, nhiều vô kể và không dễ sử dụng chút nào. Tôi mê mẩn quan sát cô ấy vẽtranh, công việc tỉ mỉ chẳng khác nào thiếu nữ thêu hoa trên lụa. Những bức họasau khi được phục chế, trở lên sống động lạ thường, cảm giác như chúng vừa đượctái sinh. Từ tận đáy lòng mình tôi vô cùng cảm phục tài năng và tấm lòng caođẹp của những con người ấy. Còn giờ đây, tôi đang được tận mắt chứng kiến quátrình chuẩn bị và hoàn thai nên những tác phẩm kiệt xuất của loài người, điềunày làm tôi phấn khích quên cả đói và mệt. Tôi muốn tìm hiểu xem, trong điềukiện vật chất thiếu thốn thời cổ đại, trong thứ ánh sáng léo lắt được đốt lêntừ nhựa thông, những nghệ nhân này đã sáng tạo nên những bức vẽ để đời ra sao.Tôi hào hứng hỏi chuyện họ, thâm nhập vào công việc của họ, học hỏi kỹ thuật vẽtranh của họ, phác họa những bức vẽ đã hoàn thành của họ, chưa bao giờ tôi đượcbận rộn và vui sướng đến thế.
Họ sửdụng bột đá xanh Lapis Lazuli làm lớp màu nền, sau đó dùng bột vàng hoặc thếpgiấy vàng quét lên quần áo cà sa của Phật tổ, từ xa sẽ thấy những hình ảnh PhậtThích Ca Mâu Ni tỏa hào quang lấp lánh, đẹp lung linh trong mỗi khung hình thoimàu xanh da trời. trải qua sự bào mòn củathời gian và mưa nắng, sắc đỏ trên bức vẽ biến thành màu đen, những màu sắckhác cũng không giữ được vẻ đẹp ban đầu, duy chỉ có màu xanh da trời ấy, vẫnvẹn nguyên vẫn tươi tắn như lúc trước. Đá Lapis Lazuli được khai thác ởAfghanistan, cách Khâu Từ một nghìn năm trăm kilomet, với màu xanh lam quyếnrũ, lại có thể phát ra thứ ánh sáng lấp lánh giống hệt đá Pyrite, nên khu đượccác thương nhân vận chuyển đến Khâu Từ, giá của các loại đá này tăng vọt, gấpnhiều lần so với giá vàng khối ở cùng một trọng lượng. trong không gian độngđá, sự giao thoa của hai màu xanh đỏ, tạo nên ánh vàng rực rỡ, mỗi bức tranh làmột cảnh tượng sinh động, bắt măt, mỗi bức tranh là một tài sản lớn. Về sau,khi Khâu Từ bị người Ughur xâm chiếm, vì căm ghét tín ngưỡng thờ cúng hìnhtượng, họ đã đang tâm cạo sạch lớp bột vàng trên mình tượng Phật, để lộ lớp đấtđá cằn cỗi tới tận hiện đại. Duy chỉ có màu xanh kiên trinh ấy, vẫn mỉm cườivới thời gian, vẻ đẹp của nó đã khiến biết bao nhiêu học giả của thế kỷ XXIphải thổn thức, ngậm ngùi.
Sau khiphát triển hưng thịnh vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, trongvòng vài trăm năm, Phật giáo không hề có tượng thờ, chỉ có dấu chân Phật, banthờ, cây bồ đề, bảo tháp là những hình ảnh tượng trưng của Phật. Khi tôi đếntham quan hang đá Ajanta ở Ấn Độ, một hang đá được xây dựng rất sớm, vào khoảngthế kỷ I- II sau Công nguyên, tôi không thấy bất cứ tượng thờ nào, chỉ có dấuchân Phật và ban thờ Phật. Một thế kỷ sau Công nguyên, cùng với sự phát triểncủa Phật giáo Đại Thừa, tín ngưỡng hình tượng trở nên lưu hành, từ lúc đó mớibắt đầu xuất hiện những tác phẩm tượng Phật.
Alexanderđại đế từng chinh chiến ngang qua Gandhara[10]vàmang theo tới đây nền nghệ thuật Hy Lạp, nên các tác phẩm tượng Phật phần nhiềuchịu ảnh hưởng từ phong cách tạc tượng và điêu khắc của Hy Lạp, Gandhara trởthành một trường phái quan trọng trong nghệ thuật tạo hình tượng Phật.
Các bứcbích họa trong ngôi chùa hang đá Lizil chịu ảnh hưởng sâu sắc của nghệ thuậtGandhara, thậm chí cả nghệ thuật Hy Lạp. Những bức vẽ tượng Phật mẫu đó đã bịhủy hoại hoàn toàn chính là những đại diện tiêu biểu cho phong cách nghệ thuậtGandhara. Khuôn mặt hình bầu dục, ngũ quan đoan chính, sống mũi cao, mái tóclượn sóng, búi gọn lên trên đỉnh đầu. Trên mình khoác áo choàng dài, lộ một bênvai và để râu. Hình ảnh các vị Phật, Bồ Tát và thánh tiên trên các bức bích họaphần lớn đều để trần nửa thân trên, dáng điệu uyển chuyển, thân thể bay bổng; yphục, trang sức, thắt lưng, đều được khắc họa vô cùng tinh tế và sống động.
Tôiđang phác thảo lại một bức họa “cung nữ hoắc Tất đạt đa(Siddartha)”. Bức họa này kể câu chuyệnkhi Phật tổ vẫn còn là một thái tử, ngài đã nhìn thấu những phiền não, khổ sởcủa cuộc đời và từ đó quyết định đi tu. Cha của ngài, đức vua Tịnh Phạn(Suddhoana) vì muốn ngài kế thừa vương vị nên đã ra sức kiến tạo một đời sốngxa hoa, hy vọng có thể níu giữ Tất đạt đa ở lại ở thế tục. Tôi đang say sưaphác họa, chợt cảm thấy có điều gì lạ từ phía sau. Quay lại, bắt gặp Rajivađang chăm chú quan sát cuốn tập của tôi, khuôn mặt đỏ dữ dội. Tôi nhìn lại bứcvẽ của mình và hiểu ra vấn đề. Tôi đang phác thọa hình ảnh một cung nữ áp sátthân mình thái tử, trong tư thế hết sức khêu gợi. Đây chỉ là một hình ảnh rấtnhỏ trong hàng nghìn hình ảnh trên các bức bích họa trong hang đá này. Nếu tôikhông vẽ lại và phóng to lên, chắc sẽ không ai để tâm đến những nét tinh tế ấy.Thân hình và tư thế của cô cung nữ quả thực các nghệ nhân vẽ tranh. Rajiva đến,tôi mới nhận ra mình làm việc nhập tâm tới mức mọi người đã đi hết mà không haybiết. Không còn cách nào khác, tôi đành đi ăn cùng cậu ấy.
Mấyngày nay, cậu ấy và vị sư trụ trì tất bật chạy qua chạy lại, không lúc nào rờibản vẽ thiết kế, mắt quan sát vách núi phía trước, tay chỉ trỏ liên hồi. Tôithấy tò mò liền hỏi, cậu ấy bảo sẽ dùng số tiền quyên tặng của triều đình trongnhững năm gần đây cho chùa Cakra để xây dựng một pho tượng Phật khổng lồ. Tôinhìn vào bản vẽ thiết kế, pho tượng cao tới mười lăm mét, trong vòng hào quangphía sau tượng Phật khổng lồ còn có rất nhiều hình tròn khắc họa các tượng Phậtnhỏ hơn. Kiểu tạo hình khác với tạo hình tượng Phật ở cõi Niết Bàn điển hìnhcủa Phật giáo Tiều Thừa, đây là nghệ thuật Gandhara giai đoạn sau, hay còn gọilà “trường phái Ấn Độ - Afghanistan”
Nghệthuật Gandhara men theo con đường tơ lụa thẳng tiến về hướng đông. Trước hết,nó đổ bộ và phát triển rực rỡ tại phía đông của lãnh thổ Afghanistan vào thờiđại của đế quốc Kushan (hoặc Kusana). Tượng Phật khổng lồ ở Bamiyan đã bịTalian phá hủy chính là những đại diện tiêu biểu cho trường phái nghệ thuậtnày. Thời niên thiếu, Rajiva từng theo mẹ đến Kabul, thuộc Kashmir để học đạo,đây mà khu vực trung tâm Gnandhara, chắc chắn cậu ấy đã được chiêm ngưỡng nhữngpho tượng vĩ đại đó. Có lẽ nhờ thế mà Thiên Phật động Kizil mới có những hang đá bêntrong dựng tượng Phật khổng lồ. Một công trình lớn như vậy, thiếu bàn tay vàtrí tuệ của một bậc cao tăng như Rajiva, khó mà có thể hoàn thành.
NhưngRajiva không biết được điều này, rằng phương pháp kết hợp kiến trúc xây dựnghang đá của Ấn Độ với nghệ thuật tạo tác những pho tượng khổng lồ nhằm tạo ranhững pho tượng Phật trong hang đá của Rajiva tại công trình Thiên Phật độngKizil không chỉ gây tiếng vang mạnh mẽ ở Khâu Từ, mà còn có sức ảnh hưởng rấtlớn đến các công trình hang đá sau này như hang đá ở Mạc Cao, Đôn Hoàng, VânCương hay ở Long Môn.
Khôngthể không khâm phục và ngưỡng mộ cậu ấy. Nhưng tôi chợt nhận ra điều lạ lùngnày, trong khi Rajiva làm việc không nghỉ ngơi thì các sư tăng khác chỉ ngồiyên trong phòng từ sáng đến tối. Thậm chí, đến giờ ăn họ cũng không ra ngoài,thường sẽ có một chú tiểu mang hộp cơm đến và đặt vào từng căn phòng. Điều nàythật kỳ quặc, phải chăng họ đang thực hiện một nghi thức nào đó? Lúc ăn cơm tôiđem thắc mắc đó ra hỏi Rajiva thì cậu ấy chỉ trả lời qua loa rằng họ đang ngồithiền, không có gì đáng ngạc nhiên cả. Tôi biết Rajiva không muốn nói, nên tôitranh thủ thời gian buổi chiều, tìm hiểu vấn đề thông qua các nghệ nhân vẽtranh.
- Họđang ngồi thiền mùa hạ[11]
Ngồithiền mùa hạ? Nghe rất quen. Đúng rồi, trong "Pháp Hiển truyện" ngàiPháp Hiển có viết rằng trên hành trình đi Tây Trúc, ngài đã nhiều lần phải dừnglại ba tháng để ngồi thiền mùa hạ.
- Hàngnăm, cứ đến mùa hạ, các pháp sư lại ngồi thiền tĩnh tâm ở trong phòng, khôngbước ra ngoài.
- Đúngvậy, họ không được phép ra ngoài, nếu có việc hệ trọng, họ phải xin phép trụtrì rồi mới được ra ngoài.
- Đúngvậy, đúng vậy, họ ngồi như vậy cả tháng trời. Các bậc cao tăng thì ngồi thiềnliền ba tháng.
Cuộcthảo luận sôi nổi không còn sức hấp dẫn với tôi nữa. Tôi bỗng thấy sống mũi caycay. Mùa mưa, đệ tử nhà Phật tập trung, ngồi bên nhau, tĩnh tâm tu hành. Bởi vìđây là khoảng thời gian vạn vật sinh sôi nảy nở, họ không ra ngoài để tránh sátsinh. Thì ra ánh mắt khinh miệt của những tăng sĩ kia dành cho Rajiva là cóthật. Đáng lẽ phải ngồi yên trong chùa tĩnh tâm tu hành, thì cậu ấy lại ngangnhiên ra ngoài cùng một cô gái. Mặc dù cậu ấy đến đây vì công việc xây tượngPhật, nhưng tại sao nhất định phải đến vào thời gian ngồi thiền mùa hạ? Cậu ấybất chấp thanh quy, giới luật của nhà chùa, là vì tôi ư?
Buổitối, tôi thơ thẩn bên sông Muzat, tôi biết, ở một góc khuất cách đó không xa,cậu ấy đang yên lặng đứng nhìn. Tôi đưa tay lên vẫy, Rajiva có vẻ ngạc nhiên,chậm rãi bước đến bên tôi. Tôi phủi sạch viên đá bên cạnh, cậu ấy do dự tronggiây lát rồi từ từ ngồi xuống.
-Rajiva, hiện đang là thời gian ngồi thiền mùa hạ, cậu không nên ra ngoài mớiphải…
Cậu ấyhơi giật mình, mắt di chuyển về phía dòng sông trăng lấp lánh như dát bạc,giọng nói bình thản:
- Tôiđến đây vì công việc xây dựng tượng Phật, điều đó càng tỏ lòng tôn kính đối vớiPhật tổ, vì sao không được?
- Nếuvậy, sao cậu không chờ một tháng sau hãy đến?
Rajivađột nhiên quay lại nhìn tôi, dưới bầu trời đêm ngàn sao lấp lánh, đôi mắt ấynhư đang cuộn sóng, nhưng những đợt sóng rất nhanh chìm vào sâu thẳm.
Cổ họngtôi nghẹn đắng, tôi không dám nhìn vào mắt cậu ấy:
-Rajiva, tôi vẽ cũng tương đối rồi, ngày mai có thể rời khỏi đây.
Rajivaim lặng, nghiêng đầu dõi mắt về phía mặt sông, gương mặt u trầm, không chútbiểu cảm.
Tôi cắnchặt môi, đẩy quyết tâm mức cao nhất có thể:
-Rajiva, tôi không thuộc về nơi này.
- Tôibiết.
Bỗngnhiên, cậu ấy đứng bật dậy, khuôn ngực phập phồng. Rajiva quả thực rất cao, tôingước lên nhìn cậu ấy chỉ một lát mà mỏi nhừ cả cổ. Có lẽ không phải chỉ vì cậuấy quá cao, mà vì đầu tôi lúc này như đeo đá, nặng trình trịch, như đang rơi,sắp rơi xuống rồi…
- Ngàymai chúng ta sẽ rời khỏi đây.
Tôigắng gượng nhấc đầu lên, thấy bóng chiếc áo cà sa màu nâu dòng đang di chuyểngấp gáp về phía nhà trọ, thoáng chốc đã biến mất trong một ngõ hẻm quanh co,vắng lặng.
Đêm đó,qua khung cửa sổ phòng trọ, tôi nhìn thấy bên sông, sưới ánh trăng vằng vặc,một bóng dáng cao gầy, đơn độc. Ngọn gió vô tình thổi bay những nếp áo mongmanh, càng khiến bóng dáng ấy trở nên cô quạnh. Tôi như bị thôi miên vào bóngngười cao gầy ấy, hồi lâu chợt thấy vạt áo thấm lạnh. Tôi u ê lau giọt nước mắtđã nhạt nhòa trên mặt, lao ra khỏi phòng. Không gian buổi đêm tịch mịch, quạnhquẽ, tiếng nước róc rách, bên sông không một bóng người. Đêm đó, tôi hầu nhưkhông ngủ, chống mắt nhìn trời sáng.
Trênđường trở về, hai chúng tôi đều im lặng. Quanh mắt cậu ấy xuất hiện những quầngthâm rõ rệt. Rajiva hướng ánh mắt ra bên ngoài cửa xe, tôi cũng vậy. Chúng tôiđều đã trưởng thành, chúng tôi biết rằng điều gì không thể, thì không nên níukéo, có níu kéo cũng vô ích, vậy hãy nhanh chóng rũ bỏ, càng sớm càng tối. Trởvề thế kỷ XXI, tôi sẽ có cuộc đời riêng của mình, biết đâu tôi sẽ tìm được mộtngười để yêu. Anh chàng cùng khoa, học trên tôi một khóa có ý với tôi lâu rồi,tôi sẽ suy nghĩ xem nên có phát triển tình cảm đó hay không.
Cho dùanh ta không đẹp trai bằng cậu ấy, không thông minh bằng cậu ấy, không dịu dàngbằng cậu ấy, không.. Tôi biết chứ, anh chàng khóa trên chẳng có điểm nào có thểso sánh với cậu ấy, nhưng anh ta là con người của hiện thực. Còn Rajiva, đốivới tôi, chỉ là tài liệu lịch sử để nghiên cứu, chỉ là mấy dòng chữ trong đốngsách cũ nát mà thôi…
Chúngtôi cứ lặng lẽ như vậy suốt dọc đường, cho đến khi trở về căn nhà nhỏ trongthành cổ Subash. Trước lúc quay về chùa, Rajiva nhìn tôi rất lâu bằng ánh mắtkhó hiểu, sau cùng là một tiếng thờ dài:
- Tôisẽ sắp xếp đội thương nhân cho cô. Những ngày tới tôi phải ngồi thiền, buổi tốisẽ không về đây nữa.
Một lúclâu, cậu ấy vẫn còn đứng đó. Bàn chân dùng dằng trước cổng nhà, mãi không cấtbước.
- Mườingày nữa là đến lễ hội Sumuzhe. Cô từng nói muốn xem lễ hội này. Hay là…
Cậu ấyngập ngừng.
- Đểsau khi lễ hội kết thúc hãy đi…
Tôingẩng đầu, thấy nhìn như đang trôi xuống hai vực nước sâu hun hút, không cócách nào thoát ra được. Sức thôi miên khó mà kháng cự của đôi mắt ấy khiến cơquan phát thanh của tôi như cứng lại, tê liệt, chỉ đủ sức thốt lên một tiếng:
- Ừ.
Vànhmôi của cậu ấy như được kéo lên, đã rất lâu rồi mới thấy cậu ấy cười. Nhưng tôikhông ở lại thêm mấy ngày vì cậu đâu nhé, Rajiva. Tôi thật sự muốn tham dự ngàyhội sôi động, mang đậm màu sắc của phương Đông ấy. Tôi là một học sinh hiếuhọc, tôi là một con ong chăm chỉ, nhưng tôi tuyệt đối không phải là một… ngườiyêu lí tưởng…