Sau khi xuống núi, ta và Lâu Tây Nguyệt quay lại Từ Châu.
Khi về tới nơi thì vừa hay đến Đoan ngọ. Trên phố Từ Châu vô cùng ồn ào náo nhiệt, hai ta giục ngựa qua sông, bên bờ người đông tấp nập, giữa sông đậu đầy thuyền rồng đuôi chim đại bàng chạm khắc tinh xảo đẹp đẽ, vải đỏ buộc trên đầu rồng, ba hồi trống cờ đỏ phấp phới, rồng lướt băng băng sóng dợn dập dềnh như múa kiếm. Trên cầu đá người xem đều nín thở ngưng thần, hò hét tưng bừng.
Ta ngẩng đầu thì thấy bên cửa sổ quán rượu ven sông có một nhóm người có đứng có ngồi, Hạ Đình Chi thân mặc quan phục màu chàm thêu hạc lộc đồng xuân, ống tay áo viền chỉ kim tuyến hoa văn lưu vân, giữa mi mục hiện vẻ trầm tĩnh. Nét mặt hắn thong dong, cùng quan viên bên cạnh trò chuyện, khi thì gật đầu, khi thì cười nhàn nhạt, khi thì nhấp trà.
Bỗng nghe được một tràng hoan hô nhảy nhót, chiếc thuyền dẫn đầu nhanh như con thoi vượt qua cây sào tre treo lá cờ bảy màu sặc sỡ. Hạ Đình Chi nghe tiếng quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, khóe miệng cong lên, gật đầu mỉm cười.
Ta tiếc hận nói với Lâu Tây Nguyệt, “Giữa sông đua thuyền, du long hí phượng, chỉ tiếc hắn chẳng nhìn thấy gì. Sau này, thế gian muôn hình vạn trạng, nhưng với hắn mà nói chỉ còn trong suy tưởng.”
Lâu Tây Nguyệt tán thành, “Đã thế rồi, sợ là chức quan của hắn cũng không giữ được.”
Ta thở dài một tiếng, “Độc của hắn thật ra đã có người giải qua cho hắn.”
“Ồ?”
“Lúc trước khi ta hỏi mắt hắn bị mù đã bao lâu, hắn nói chừng nửa tháng. Thông thường mà nói, sau khi trúng bạch thối tán, mắt mù không mấy ngày sẽ bị chứng ù tai, môi tím. Nhưng hôm đó ta xem mạch tượng cho hắn thì không thấy có những triệu chứng tương tự. Qua đó có thể thấy, người hạ độc e là hối hận nên đã giải độc, nhưng tiếc rằng độc đã nhập vào tận máu xương, chứng mù mắt là không thể vãn hồi được.”
Lâu Tây Nguyệt ngẫm nghĩ chốc lát, “Sư phụ cho là Tô Uyển Nhi hạ độc?”
Ta xuống ngựa, định bụng vào chợ tham gia náo nhiệt, “Ta không biết. Nhưng có thể khẳng định, trong lòng Hạ Đình Chi biết ai là người hạ độc. Còn nữa, Tô Uyển Nhi thấy thế nào cũng là một tiểu nương tử nhu mì yểu điệu, tội mưu sát chồng như vậy, trông không có vẻ là chuyện nàng sẽ làm.”
Lâu Tây Nguyệt cười nói với ta, “Hôm nay là Đoan ngọ, chúng ta cũng nên tưởng niệm Khuất đại phu một chút nhỉ.”
Ta chọn mấy túi hương, rướn cổ ngó trên sạp với lấy mấy sợi tơ ngũ sắc để đan dây trường mệnh, “Đương nhiên đương nhiên, Khuất đại phu vì nước vong thân, một đời tráng sĩ hương tiêu ngọc vẫn, trong lòng ta vô cùng thương tiếc.”
Lâu Tây Nguyệt dẫn ta bước vào một tửu lâu, vẫy tay nói với tiểu nhị, “Cho tôi một bầu hùng hoàng tửu và một dĩa sao ngũ độc.”
Ta tò mò hỏi, “Sao ngũ độc là gì?”
“Có lẽ sư phụ ở lâu trong cốc nên không biết. Người Giang Nam để trừ tà, vào ngày tết đoan ngọ sẽ dùng năm loại nguyên liệu cộng thêm hương liệu xào chung với nhau. Bởi vì năm loại này đều là vật có độc, nên khi ăn sao ngũ độc có thể giúp thần thanh khí sảng, bách độc bất xâm.” Khi nói, vẻ mặt hắn say sưa tựa như đó là mỹ vị của thế gian; tiếp đó mắt phượng khẽ chớp, mỉm cười nhìn ta.
Lúc này tiểu nhị bưng lên một dĩa thức ăn xào đen sì sì không rõ màu sắc, mới rồi nghe Lâu Tây Nguyệt nói khiến con sâu thèm ăn trong bụng ngọ nguậy, vì vậy ta vội gắp một đũa cho vào miệng.
Lâu Tây Nguyệt mở miệng nói chậm rãi, “Ngũ độc này gồm cóc, bò cạp, nhện, rắn, rết.” Dứt lời, hắn nhìn ta cười, rồi vẫn cười, cực thích ý.
Cổ họng tắc lại, ta nghẹn.
Lâu Tây Nguyệt rót một chén hùng hoàng, lại chậm rãi nói, “Món này dùng rau hẹ, rau giao, mộc nhĩ, cá bạc, tôm thước thay cho ngũ độc.”
Ta nghẹn một họng thở không thông, ôm ngực ho khan không dứt.
Lâu Tây Nguyệt nghiêng đầu nhìn ta, vẫn đang cười.
Tiếp đó đầu ngón tay hắn chấm rượu hùng hoàng, phút chốc để sát vào ta, một tay nắm cằm ta, tay kia vẽ lên trán ta ba gạch, điểm nhẹ một cái lên chóp mũi, sau đó xẹt qua sau tai, như nhẹ như mạnh mà véo vành tai ta một cái.
Ta run, “Lâu Tây Nguyệt, cậu làm gì vậy?”
Lúc này Lâu Tây Nguyệt đã thu tay, cầm chén rượu ngửa đầu uống cạn, cười nói, “Tết Đoan ngọ, dùng hùng hoàng vẽ lên trán có thể xua đuổi độc trùng, đẩy lùi bệnh tật.”
Ta lập tức đứng bật dậy, đổ rượu hùng hoàng vào lòng bàn tay, chà xát tay, rồi nhào về phía hắn, “Vậy vi sư cũng vẽ giúp cậu.”
Hắn tỉnh bơ dịch người né tay ta, “Mới rồi Tây Nguyệt đã uống qua hùng hoàng tửu, không nhọc sư phụ ra tay.”
Hai ta ngắm nghía bên ngoài một lúc, khi gần đến hoàng hôn thì mới trở lại Hạ phủ. Trước hai cánh cổng son ngoài phủ treo xương bồ và lá ngải, vào hậu viện, xa xa thấy Tô Uyển Nhi đứng dưới cây hòe, bóng lưng run nhè nhẹ.
“Chúng ta qua nói với Uyển Nhi một tiếng, lục ngạc điêu đã hái được, ngày mai là có thể bố châm giải độc rồi.”
Khi ta cùng Lâu Tây Nguyệt đến gần, Tô Uyển Nhi xoay người lại, trong tay nàng cầm một chiếc áo bào nam tử màu xanh nhạt, đôi mắt ngậm giọt lệ trong, sắc mặt trắng bệch, môi cắn chặt, thân thể không kìm được run rẩy, tiếp đó lệ tuôn rơi.
Sau khi nàng rời đi, chúng ta mới thấy rõ bên hồ nhỏ trong viện có hai người đang đứng. Lục Tiểu Nguyệt ngẩng đầu hôn lên môi Hạ Đình Chi, hắn chưa thay quan phục, trên mặt thế mà lại nhuộm một ráng đỏ ửng. Hoàng hôn, ánh chiều tà lơ lửng cuối chân trời nhuộm một mảng mây màu đỏ ửng, bao trọn hai người này trong đó. Mặt hồ sau lưng phản chiếu ánh sáng rực, chợt có hai, ba chiếc lá rơi xuống họa ra từng vòng sóng nước lăn tăn. Lục Tiểu Nguyệt mặc sa mỏng màu hạnh nhạt vấn vít cùng góc áo quan phục của Hạ Đình Chi, sợi tóc nàng vuốt qua khuôn mặt trắng muốt của hắn.
Hắn hơi đẩy Lục Tiểu Nguyệt ra, môi mấp máy không biết nói gì. Lục Tiểu Nguyệt lúc này mới nhìn thoáng qua hướng Tô Uyển Nhi vừa rời đi, khóe môi cong lên lộ ra một ý cười.
Ta há há miệng, nhìn hai người phía xa, một hồi lâu mới nói, “Sao lại không có?”
Lâu Tây Nguyệt không nói gì.
Ta vô cùng đau đớn, “Đã tới chậm, ôi đã tới chậm.”
Lâu Tây Nguyệt liếc ta một cái, tỉnh bơ nói, “Có phải sư phụ chưa từng trải qua sự đời?”
Ta thuận miệng đáp, “Đúng vậy.” Suy nghĩ vừa chuyển, dừng lại, nhìn sang Lâu Tây Nguyệt, khóe miệng hắn mang ý cười, hí mắt nhìn ta.
“Sư phụ ta xem qua bao sinh ly tử biệt, hiểu được ít nhiều thăng trầm. Nam nữ hoan ái bất qua chỉ là mây bay, một phút tham hoan, không bằng tế thế cứu nhân.” Ta thấy ý cười bên môi Lâu tây Nguyệt càng đậm, bèn nghiêm mặt nói, “Tây Nguyệt này, vi sư biết hồng nhan tri kỷ của cậu rất nhiều, thế thì cậu nhất định đã trải qua rất nhiều sự đời rồi nhỉ.”
Lâu Tây Nguyệt thoáng cái thu lại ý cười, từ chối cho ý kiến, “Sư phụ dạy phải.”
Lục Tiểu Nguyệt và Hạ Đình Chi ở phía kia đã đứng một lúc lâu mà vẫn không tiến thêm một động tác nào, ta hơi tiếc nuối, phỏng đoán, “Lục Tiểu Nguyệt hôn hắn một cái hắn liền đỏ mặt, lẽ nào hai người bọn họ chưa viên phòng?”
Lâu Tây Nguyệt cũng tham gia dự đoán với ta, “Có thể lắm, đương tân hôn đã đến Từ Châu nhậm chức. Không có thời gian.”
Ta cẩn thận nghĩ lại, “Sai rồi, nếu không viên phòng, vậy lần trước Hạ Đình Chi đuổi chúng ta ra, hai người bọn họ ở trong thư phòng làm gì?”
Lâu Tây Nguyệt mặt không đổi sắc nói, “Uống trà thôi.”
“Nhưng chén trà lại vỡ.”
Hắn nghiêm túc nói, “Hạ Đình Chi tâm sự với Lục Tiểu Nguyệt, rồi hắn khát nước, khi cầm chén uống trà, vì mắt không thấy nên lỡ tay làm rớt chén trà.”
Ta nghe xong cười khan một tiếng, “Tây Nguyệt, cậu quả nhiên có kiến giải độc đáo.”
Đêm vừa đến, ta tới trước phòng Tô Uyển Nhi, gõ cửa một cái, nàng mở cửa hỏi, “Hạ thần y có chuyện gì hay sao ạ?” Nét mặt nàng khá tiều tụy, đôi mắt hơi sưng, trên khuôn mặt nhỏ nhắn mơ hồ có thể thấy lệ ngân.
“Ta đến để nói với cô, lục ngạc điêu đã hái được rồi. Trong ngày mai là có thể bố châm trị liệu cho cậu ta.”
Tô Uyển Nhi cười buồn, “Hạ thần y có nắm chắc sẽ chữa lành cho Đình ca ca?”
Ta do dự đáp, “Ta nắm chắc tám phần, chỉ là…”
“Chỉ là sao ạ?”
Ta đáp, “Mắt của Hạ đại nhân đã bị hủy, mặc dù ta giải được độc cho cậu ta, những cũng vô pháp khôi phục độ sáng.”
Tô Uyển Nhi chỉ vấn tạm tóc ra sau đầu, mái tóc đen như mực càng tô điểm làn da trắng nõn như ngọc của nàng, thân hình nàng mỏng manh như một gốc cây thủy tiên trong bóng đêm dày đặc. Nàng nghe xong, thân hình khẽ run, mắt nâng lên, nhẹ giọng hỏi, “Dùng mắt của thiếp có được không?” Có thể thấy, mi mắt nàng run run như cánh bướm.
Ta không đành lòng, nói, “Nếu ấn theo quy củ thê thiếp, coi như thực sự cần đôi mắt để đổi, thì cũng là chính phòng Lục Tiểu Nguyệt.”
Tô Uyển Nhi trầm mặc một lát, sắc mặt nàng dần mất hết huyết sắc, tái nhợt, yếu ớt như lục bình, buồn bã nói, “Huynh ấy yêu Lục Tiểu Nguyệt, nhất định không muốn nàng ta vì mình mà mù mắt…”
“Cô muốn thành toàn cho hai người bọn họ?”
Uyển Nhi mím mím môi, cười chua xót, “Không muốn. Thiếp chỉ không muốn huynh ấy thương tâm.”
Một đám mây lướt đến che khuất ánh trăng, cảnh vật chìm vào bóng tối dày đặc. Ta chạm thấu bi thương trong ánh mắt nàng.
“Nếu cô dùng mắt mình để đổi cho cậu ta, sau này…”
Khóe mắt nàng cong cong, “Hạ thần y có thể giấu huynh ấy không? Khi mắt huynh ấy lành, thiếp định sẽ rời khỏi đây ngay.”
Lòng ta thắt lại, “Cô đã nghĩ kỹ chưa? Có đáng không?”
Trong đôi mắt Tô Uyển Nhi phủ một tầng hơi nước, lẩm bẩm nói, “Thiếp không muốn tính toán đáng hay không. Chỉ là, đáng thì thế nào? Mà không đáng thì thế nào?”
Nàng vào phòng lấy đôi ngọc trụy đưa cho ta, “Đây là vật đính ước của hai người chúng ta, xin dùng làm y thù.”
Ta nhìn đôi hoa tai lấp lánh, nghĩ thầm: Có phải buổi tối Lục Tiểu Nguyệt gặp Hạ Đình Chi lần đầu tiên ấy, hắn đã mua đôi hoa tai này? Khi đó, Hạ Đình Chi còn là một thư sinh thanh tú đầu vấn khăn, lòng tràn đầy vui vẻ mà đeo đôi hoa tai này cho Tô Uyển Nhi. Khi đó, Tô Uyển Nhi còn là một tiểu thư tri phủ dịu dàng động lòng người, đôi bích ngọc không tỳ vết này lung linh trên khuôn mặt ửng rặng mây đỏ khiến người ta mê say.
Nhưng chỉ trong chớp mắt, hai người đã lướt qua nhau. Khi gặp lại, quang cảnh có còn như vậy.
Ta trả hoa tai lại cho nàng, an ủi nàng, “Nếu đã là tín vật, vậy cô hãy giữ lại đi thôi. Ta sẽ gắng hết sức chữa lành cho cậu ta.”
“Đa tạ thần y”, khoảnh khắc nàng xoay người, ta trông thấy một giọt lệ nhỏ ra từ khóe mắt nàng.
Nàng đóng cửa phòng lại, ngọn nến trong phòng cũng thổi tắt đi, bóng đêm vô tận đã trườn đến tận đây. Tiếng nức nở thấp thoáng bên tai, từng âm thanh đứt quãng hòa vào không trung, cùng gió đêm hợp thành một tiếng thở dài nồng đậm.
Khó ngủ, ta ngồi xuống cạnh cái hồ nhỏ trong viện, trước mắt là ánh trăng sáng ngời.
Mặt hồ phản chiếu một bóng người thật dài, Lâu Tây Nguyệt cầm hai bầu rượu ngồi xuống cạnh ta.
Ta phiền muộn, “Hôm nay vi sư ưu sầu không thôi.”
Hắn nở nắp bầu rồi đưa ta, “Tây Nguyệt biết.”
Ta chống má nói, “Ta thấy không đáng cho Tô Uyển Nhi. Nhưng nghĩ lại, nếu ta là nàng, ta cũng sẽ làm như vậy.”
Quay sang nhìn Lâu Tây Nguyệt nói, “Khi đó lưỡng tình tương duyệt, khi đó thanh mai trúc mã, cùng nhau lớn lên nơi Từ Châu non xanh nước biếc này. Về sau, thế sự xoay vần, tất cả chuyện quá khứ chỉ như vừa hôm qua. Thật khiến người ta tổn thương tinh thần.”
Mùi rượu thoang thoảng đâu đây, Lâu Tây Nguyệt nhặt một hòn đá ném vào hồ, “Tõm—“, từng đóa từng đóa bọt nước bung lên.
Trong thư phòng của Hạ Đình Chi vẫn còn ánh nến nhảy nhót. Ta hỏi Lâu Tây Nguyệt, “Cậu nói xem, ta có nên chữa lành mắt cho hắn không? Nếu không thì, ta trực tiếp độc chết hắn luôn. Thay trời hành đạo, bớt một mối họa cho đời.”
Lâu Tây Nguyệt bật cười, “Nếu sư phụ độc chết hắn, thế thì có tận hai người đau khổ lắm đấy.”
Ta uống một hớp rượu, thở dài, “Thật rối rắm.”
Lâu Tây Nguyệt đưa tay kéo đầu ta dựa vào vai hắn, nhẹ giọng nói, “Người thật đúng là dễ nhập hí.”
Trong lòng ta vô cùng rối rắm mà đấu tranh kịch liệt, đấu rồi lại đấu, thế mà ngủ mất. Lâu Tây Nguyệt mặc cẩm bào, đầu vai rất trơn, mỗi lần ta trượt xuống, lại cọ cọ lên, cứ vậy nhiều lần, giấc ngủ này cũng thật chập chờn.
Sớm hôm sau, ta quyết định tìm Ha Đình Chi nói chuyện nghiêm túc một lần, mục đích là để phân tích đầy đủ tư tưởng tình cảm của hắn, hơn nữa còn để đúng bệnh hốt thuốc. Hắn ở trong thư phòng, khi ta vào, hắn đang cùng sư gia đàm luận chính vụ.
Sư gia lo lắng nói, “Đại nhân, triều đình đã biết việc ngài bị mù mắt. Chuyện này rất phiền phức, nghe nói Hoàng thượng đang định điều Thứ sử Khâm Châu đến đây, nói là, nói là trước khi ngài khỏi bệnh, trợ giúp ngài một tay.”
Hạ Đình Chi trầm mặc chốc lát, “Ta biết rồi.”
Sư gia nhíu mày, “Đại nhân, bây giờ ngài còn trẻ, nếu như mắt chữa lành được, say này ắt tiền đồ vô lượng. Huống chi đại nhân làm việc rất tốt, trong lòng Thánh thượng biết rõ…”
Hạ Đình Chi trầm ngâm nói, “Đôi mắt này của ta, không lành được.”
“Hạ đại nhân, hôm nay là ngày bố châm giải độc. Trước đó, tại hạ có thể hỏi đại nhân mấy vấn đề.”
Hạ Đình Chi gật nhẹ đầu, “Hạ thần y cứ hỏi tự nhiên.”
Ta tìm cái ghế ngồi xuống, suy nghĩ sao cho lời lẽ dễ hiểu mà nội dung sâu sắc để có thể thấu được nội tâm Hạ Đình Chi, “Vì sao Hạ đại nhân lại không muốn chữa lành mắt?”
Thần sắc Hạ Đình Chi biến đổi, “Hạ mỗ cho rằng sinh tử có mệnh, vạn sự không thể cưỡng cầu.”
“Mắt ngài mù không thể làm quan, cảnh đẹp thế gian cũng không ngắm được. Cha của Tô Uyển Nhi giúp ngài mười năm gian khổ học tập, nay quay một vòng, kết quả là, cái gì cũng không có. Ngài cam tâm sao?”
Tay phải Hạ Đình Chi nắm chặt, đốt ngón tay trở nên trắng bệch, không nói gì.
“Hạ đại nhân, tại hạ sớm nghe nói trên điện thí ngài cùng Thánh thượng cao đàm khoát luận, chắc hẳn cũng ấp ủ một lòng nhiệt thành vì nước. Bây giờ cứ thế mặc hóa tro tàn, ngài thật không quan tâm sao?”
Hạ Đình Chi là một người nội liễm, ta dẫn dắt từng bước, nói năng hùng hồn đầy lý lẽ mà nêu ra bao tấm gương tài tử tráng sĩ tự cổ chí kim, ví như Tư Mã Thiên chịu án cung hình (thiến) nhưng vẫn cầm bút không bỏ, ví như Khuất đại phu một đời kiêu hùng trước khi ôm đá chìm sông vẫn ngâm thơ hát vang. Dù thế hắn vẫn bất vi sở động, ta móc tâm đào phế mà kể hết với hắn tất cả sự tích anh hùng ta biết mà vẫn không dò được cái xương sườn mềm* của Hạ Đình Chi.
*Nguyên văn ‘nhuyễn lặc’ (phần mềm của xương sườn): xương sườn mềm là bộ phận dễ bị tổn thương, được dùng để hình dung khuyết điểm, chỗ đau, điểm yếu, nhược điểm của người hoặc vật.
Cuối cùng, ta quyết định nếu muốn chữa lành cho hắn, phải dùng mê dược.
Cầm tráp thuốc đi tìm Lâu Tây Nguyệt, ta mặt hiền mày lành mà cười với hắn.
Lâu Tây Nguyệt mặt không đổi sắc, nói, “Lần trước khi sư phụ cười với con thế này, là bảo con đi quét dược trì.”
Ta vẫn cười, “Tây Nguyệt, không gạt cậu, vi sư chưa từng bố châm.”
Lâu Tây Nguyệt run lên, cắn răng nói, “Không phải sư phụ đã cứu vô số người sao?”
“Đúng vậy, nhưng ta chưa từng chữa cho người nào bị mù, vì vậy chưa từng bố châm trên đầu người. Mà huyệt vị trên đầu lại nhiều, không cẩn thận rất dễ châm sai kinh mạch. Hạ Đình Chi là trọng thần của triều đình, trước là Trạng nguyên, nay là con rể của tướng quân. Hắn, là một nhân tài. Ta lo nếu không cẩn thận châm sai, thế thì bỏ rồi.”
Lâu Tây Nguyệt híp mắt nhìn ta.
Ta hừ hừ nói, “Tây Nguyệt, cậu không nói lời nào, vậy vi sư xem như cậu đồng ý nhé.” Tiếp đó, ta xích lại gần hắn.
Nét mặt Lâu Tây Nguyệt mờ mịt, nhìn ta đầy e dè.
Dưới ánh mắt long lanh của hắn, ta rốt cuộc dậy lòng trắc ẩn, “Quên đi, vi sư tìm một tên nào đó vào châm cho hắn vậy.”
Lâu Tây Nguyệt thoáng nở nụ cười, xích lại gần ta hơn, “Sư phụ không nỡ để con làm?”
Ta gật đầu thừa nhận, “Ta không nỡ, vi sư cũng chưa động tới dao*. Lần sau lại tìm cậu.”
*Ở đây ý chị là sau khi bố châm cho HĐC thì sẽ thay mắt, mà thay mắt thì phải dùng tới dao. Trước kia chị cũng chưa từng dùng, nên định sẽ lại tìm anh LTN để anh làm.Ngày tết Đoan Ngọ và vị Khuất đại phu:
Truyền thuyết Trung Quốc kể lại rằng, vào cuối thời Chiến Quốc, có một vị đại thần nước Sở là Khuất Nguyên. Ông là vị trung thần nước Sở và còn là nhà văn hoá nổi tiếng. Tương truyền ông là tác giả bài thơ Ly tao (thuộc thể loại Sở từ) nổi tiếng trong văn hóa cổ Trung Hoa, thể hiện tâm trạng buồn vì đất nước suy vong với hoạ mất nước. Do can ngăn vua Hoài Vương không được, lại bị gian thần hãm hại, ông đã uất ức gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn ngày mùng 5 tháng 5. Thương tiếc người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày đó, dân Trung Quốc xưa lại làm bánh, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (ý làm cho cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh, lấy bỏ gạo vào ống tre rồi thả xuống sông cúng Khuất Nguyên.