Cô ấy nói mình không muốn đợi nữa, những người bảo cô ấy đợi cuối cùng đều không quay lại. Cậu ta không để cô ấy đợi, nhưng lần này, người không quay đầu lại đổi thành cô ấy.
Đến khi trời sáng tỏ, trên con phố vắng người qua lại, Tư Thất bắt đầu đoán cô ấy bị thứ gì đó giữ chân. Cậu ta vội vàng đến con hẻm nơi cô ấy ở, trước hẻm có một chiếc ô tô màu đen đang đậu, cậu ta thấy cô ấy yên lặng ngồi ở ghế sau cùng một người đàn ông.
Cậu ta đuổi theo xe, nhưng là một người què, cậu ta không đuổi kịp. Người trong hẻm nhìn cậu ta như nhìn một kẻ điên, cậu ta ngã lăn trên đất rồi lại đứng dậy, nhìn theo bánh xe cuốn lên bụi mù mịt, cậu ta quay đầu, ánh mắt nhìn người khác như một con sói hoang điên loạn, hét lên với người phụ nữ trốn sau lưng cậu cô ấy: “Cô ấy là con gái của bà!”
Không ai đáp lại sự chất vấn của cậu ta.
Tư Thất quay về cửa hàng đồng hồ, thậm chí sư phụ không biết cậu ta định chạy trốn, chỉ nghĩ sáng nay cậu ta có việc nên bỏ làm, phạt một ít tiền công. Cậu ta không gặp lại Kim Tương Tuyệt, những vũ nữ mới vào Bách Nhạc Môn đều không thể ra ngoài, bên trong có người dạy họ cách sống trong thế giới mới.
Khi cô ấy không còn ở đó, Tư Thất dường như không cảm nhận được thời gian trôi qua. Cậu ta như quay trở lại ngôi miếu hoang trên núi, nằm cô độc trong đống cỏ dại, không ai lo lắng cho mình, cậu ta cũng không lo lắng cho ai. Thời điểm tốt đẹp nhất, cậu ta từng nghĩ đến việc chuyển ra khỏi gác xép, thuê một căn nhà riêng, sau đó đón Kim Tương Tuyệt đến, mà bây giờ, ngay cả ý nghĩ đó cũng không còn.
Làm việc ở cửa hàng ngày càng lâu, sư phụ cũng không quản cậu ta nghiêm như trước kia. Có đôi khi buổi tối tan làm, cậu ta sẽ đi một mạch đến Tĩnh An Tự, đến Bách Nhạc Môn, đứng ngoài cửa hút thuốc rồi đợi chờ. Cậu ta cũng không biết mình muốn làm gì, lại không có tiền vào trong nên chỉ có thể đứng bên ngoài, đứng suốt cả đêm.
Cuối cùng có một ngày, cậu ta nhìn thấy cô ấy.
Cô ấy mặc một chiếc váy khiêu vũ màu đỏ tím xẻ cao đến đùi, trên váy được đính những mảnh kim tuyến lấp lánh như vảy cá bằng chỉ vàng, đi giày cao gót, đội chiếc mũ ren đen lệch. Cô ấy trang điểm rất đậm, lông mi đen và dài, từ xa nhìn thấy cô ấy nháy mắt với khách hàng, như hai con bướm đen.
Cô ấy tiễn khách ra ngoài, khách đều mặc tây trang, có người béo bụng, có người phong lưu phóng khoáng. Tư Thất đứng trong bóng tối nhìn nụ cười rực rỡ của cô ấy, lòng cậu ta từ từ nặng trĩu.
Nhưng cậu ta vẫn đến đây mỗi ngày.
Thỉnh thoảng cậu ta có thể thấy cô ấy ra tiễn khách, nhưng phần lớn thời gian thì không. Lúc không thấy cô ấy, Tư Thất đứng bên đường nhìn dáng vẻ của những người đến vũ trường, cách họ đi đứng, nói chuyện, dáng vẻ của những người đàn ông đứng ngoài cửa hút thuốc và trò chuyện. Dáng dấp họ hút thuốc khác với công nhân, kéo nhẹ tay áo sơ mi để lộ đồng hồ trên cổ tay, cánh tay bên hông nhấc lên một chút, hai ngón tay giữ điếu thuốc ở độ cao ngang vai. Sư phụ từng nói người phải có phong thái, trước đây cậu ta không hiểu nhưng giờ thì hiểu rồi, hóa ra đây chính là phong thái. Đôi khi nghe họ nói về người trong Bách Nhạc Môn, bàn tán về quy tắc và tin đồn bên trong. Thỉnh thoảng lại có đại gia ra giá cao muốn chuộc người, nhưng Bách Nhạc Môn vẫn không chịu nhả người — ông chủ Nhậm này như một con tỳ hưu, vũ nữ được bồi dưỡng trong tay chỉ có vào chứ không ra, e là phải có bối cạnh tiền quyền hạng nhất mới có đường sống để thương lượng.
Mùa hè ở Thượng Hải thường mưa to.
Hôm nay cậu ta ở Bách Nhạc Môn đợi đến nửa đêm vẫn không thấy bóng dáng Kim Tương Tuyệt. Trời đã mưa một lúc rồi, cậu ta đứng dưới tán ô ở góc phố tối, vừa định rời đi thì bất ngờ bị ai đó va vào vai từ phía sau. Cậu ta quay đầu lại, thấy một người đàn ông mặc áo khoác đen đi ngang qua mình.
Giữa mùa hè, mặc áo khoác làm gì?
Cậu ta bị một loại sức mạnh nào đó thúc giục đi theo, tiếp đó cậu ta thấy người đàn ông kia đi về phía cửa Bách Nhạc Môn. Trong cửa xoay có ánh sáng lập lòe, một nhóm người chầm chậm bước ra, vây quanh một người đàn ông trung niên mặc vest. Kim Tương Tuyệt đi bên cạnh, khoác tay một người khác, từ góc nhìn của Tư Thất, thân hình cô ấy và người đàn ông mặc áo khoác đen vừa chồng lên nhau.
Mưa lớn đổ xuống, ngoài cửa có xe đợi sẵn. Chưa kịp để người đàn ông đó đến gần xe, ánh mắt Tư Thất căng ra, trông thấy người mặc áo khoác đen đó rút một khẩu súng từ trong áo khoác ra.
Kim Tương Tuyệt đứng giữa hắn ta và nhân vật chính, trong khoảnh khắc nòng súng giơ lên, mọi người còn chưa kịp phản ứng thì Tư Thất đã giơ tay cướp súng. Nòng súng lệch đi, viên đạn “đinh” một tiếng bắn vào cửa xe, kính vỡ tung tóe. Trong đám đông, vài người phụ nữ đi cùng sợ hãi đến hét ầm lên. Sự xuất hiện đột ngột của Tư Thất làm người mặc áo khoác đen giật mình, sau đó hắn ta chuyển nòng súng nhắm vào Tư Thất bắn phát thứ hai.
Máu hòa vào màn mưa, trời lại quá tối nên không nhìn rõ.
***
Viên đạn sượt qua xương sườn, nhưng cậu ta lại không chết.
Nghĩ lại, Tư Thất thật sự là người một người mệnh cứng. Mùa đông bị ném xuống gầm cầu, không chết. Rơi từ mười một chiếc ghế xuống, không chết. Phát bệnh nặng trong ngôi miếu hoang vắng, vẫn không chết. Hiện giờ bị một viên đạn bắn vào bụng, không ngờ vẫn không chết.
Tư Thất không chết nằm trong phòng bệnh của bệnh viện, được chăm sóc bằng thuốc và thiết bị tốt. Mỗi ngày cậu ta có thể tỉnh dậy một lúc, hỏi thăm y tá thì họ đều bảo cậu ta cứ nghỉ ngơi cho tốt, có người trả tiền để cứu mạng cậu ta.
Đợi đến khi cậu ta tỉnh táo hoàn toàn, cuối cùng người này cũng đến.
So với người này, những người đàn ông hút thuốc trước Bách Nhạc Môn đều mất hết phong thái. Rõ ràng là cùng một loại quần áo, cùng lắm là chất liệu và tay nghề cao cấp hơn một chút, khác biệt ở chỗ nào? Tư Thất nằm trên giường bệnh lặng lẽ nhìn ông ấy một lúc, nhận ra dù người này đã qua trung niên, nhưng đôi mắt vẫn cực kỳ sáng, giống như chim ưng, sắc bén nhưng lại không mất đi sự cẩn trọng.
Người đi cùng gọi ông ấy là Trình tiên sinh, lại quay sang vỗ bả vai Tư Thất, nói với ý tứ hàm súc, cậu ta chắn đạn đã cứu được quý nhân.
Cứu quý nhân cái gì, cậu ta quan tâm người khác làm gì chứ, chỉ sợ viên đạn không có mắt làm Kim Tương Tuyệt bị thương. Nhưng bất luận động cơ là gì, cậu ta cũng thực sự đã thay Trình tiên sinh đỡ một viên đạn.
Người với người đúng là khác biệt. Tư Thất chịu một viên đạn, cùng lắm là tự mình nằm trên giường bệnh. Nhưng nếu Trình tiên sinh trúng viên đạn này, nhất định sẽ dấy lên một cuộc rung chuyển về tiền quyền ở Thượng Hải.
Muốn cái gì? Thư ký của Trình tiên sinh hỏi cậu ta, trong tay đã cầm sẵn một tấm séc trống, để cậu ta tự điền một con số. Thực ra Tư Thất muốn bao nhiêu cũng không quá đáng, Trình tiên sinh không thiếu tiền, nhưng tuyệt đối không ngờ tới, cậu ta giơ tay lên chỉ vào vị thư ký kia.
“Tôi muốn giống như anh ấy.” Tư Thất nói: “Làm một công việc ở bên cạnh ngài.”
Trình tiên sinh và thư ký của ông ấy đều ngỡ ngàng.
“Cậu tốt nghiệp đại học nào?” Thư ký là người phản ứng trước tiên.
Tư Thất nói: “Tôi chưa từng học đại học.”
“Biết tiếng Anh không?” Thư ký lại hỏi: “Toán học thế nào?”
“Không biết tiếng Anh.” Cậu ta tiếp tục nói: “Biết chút tính toán, dùng bàn tính.”
“Vậy trình độ học vấn của cậu thế nào?”
“Tôi chưa từng đi học.”
Cậu ta trả lời rất thản nhiên, thư ký bị nghẹn đến không nói nên lời, ngược lại là Trình tiên sinh cười lớn. Ông ấy xua tay, ra hiệu cho thư ký cất tấm séc đi, cúi xuống vỗ vai Tư Thất.
Vết thương do đạn bắn còn chưa lành hẳn đã bị ông ấy vỗ lên người như vậy, chấn động làm cho bên trong băng gạc đau nhói. Tư Thất vẫn bình thản mặc ông ấy vỗ, cuối cùng cũng chờ được một câu nhận lời.
“Đưa cậu ta đi học lái xe, trở về làm tài xế cho tôi.” Trình tiên sinh nói: “Cậu thấy được không?”
Làm tài xế…
Tư Thất cúi đầu suy nghĩ, rồi ngẩng lên nói: “Chân trái tôi bị què, tôi không biết người què có thể lái xe không.”
Biểu tình của thư ký trở nên rất căng thẳng, lo lắng nhìn Trình tiên sinh. Trình tiên sinh nheo đôi mắt như chim ưng lại, nhìn thẳng vào mặt Tư Thất rồi mỉm cười.
“Có thể lái được, tôi cũng có thể. Chân trái của tôi cũng bị tật.” Trình tiên sinh nói.
Thậm chí ông ấy còn đứng lên đi vài bước trước mặt Tư Thất, tuy không khập khiễng nặng như cậu ta nhưng cũng thật sự là “đất không bằng”. Lạ thật, Trình tiên sinh người ta dù bước đi khập khiễng, nhưng cũng là khập khiễng có phong thái.
Về phần tấm séc kia, ông ấy cũng không lấy lại. Trình tiên sinh nói mạng sống của cậu ta rất quý giá, chỉ cho một vị trí tài xế là coi thường mạng sống của cậu ta. Tư Thất không muốn điền thì cứ để trống trước, chờ khi nào muốn thì tiền hay cái khác, đều được.
Mùa hè Tư Thất ăn đạn, mùa thu xuất viện, mùa đông học lái xe xong. Ngày đến báo danh tại nhà Trình tiên sinh, quản gia đưa cho cậu ta chi phí mua sắm trang phục, bảo cậu ta đi may một bộ vest. Tư Thất đến tiệm may đo áo, thợ may ngậm thước mềm đo cho cậu ta, nói chân phải của cậu ta dài hơn chân trái ba centimet.
“Ừ.” Tư Thất nói: “Chân trái của tôi bị tật.”
Cậu ta bị tật từ năm 13 tuổi, xương chân trái bị gãy rồi nối lại, khi dài ra rõ ràng không bắt kịp chân phải.
“Thế này đi.” Người thợ may già gợi ý cho cậu ta: “Cậu nên đặt mua thêm một đôi giày da ở đây. Tôi sẽ độn gót giày trái cao lên ba centimet, đi lại sẽ vững chắc hơn.”
Ồ, hóa ra là như vậy. Hóa ra tiền tài có thể giải quyết được nhiều việc như thế, chẳng trách Trình tiên sinh không lộ rõ sự khập khiễng, có lẽ ông ấy cũng dùng tiền để bổ sung chỗ khiếm khuyết của chân mình.
Năm 18 tuổi, Tư Thất trở thành tài xế của Trình tiên sinh, mặc tây trang mang giày da, cổ tay áo sơ mi và găng tay trắng tinh, tóc đuôi sói vẫn buộc như thường lệ. Quản gia dạy cậu ta các lễ nghi của tài xế, mỗi khi xuống xe, cậu ta phải nhanh chóng đi vòng ra sau mở cửa xe cho Trình tiên sinh. Nếu Trình tiên sinh muốn châm thuốc, câu ta phải lấy sẵn bật lửa ra trước một bước. Bật lửa cũng tính trong chi phí trang phục, là bật lửa tự động của Pháp, mạ bạc bên ngoài, bánh xe đánh lửa sắc bén, khi đánh lên phát ra tiếng kêu trong trẻo.
Ai có thể ngờ được nửa năm trước, cậu ta còn vụng về quẹt diêm trong đêm đông?
Năm 1936, ở Bách Nhạc Môn tập trung toàn những người thuộc tầng lớp thượng lưu. Bên trong áo thơm tóc mượt, bên ngoài xe đẹp mỹ nhân. Tư Thất chỉ đưa Trình tiên sinh vào cửa, cậu ta không có tư cách vào trong. Nhưng đứng gần, có thể nghe thấy cuộc trò chuyện của người qua kẻ lại, thấy được áp phích dán ở cửa.
Gương mặt trên áp phích cậu ta nhận ra, nhưng tên thì đã đổi. Kim Tương Tuyệt trong Bách Nhạc Môn không còn gọi là Kim Tương Tuyệt nữa, mà được gọi là Kim Hồng Mai. Họ nói đó là vũ nữ nổi tiếng nhất hiện nay, kỹ thuật nhảy không thể nói là xuất sắc cỡ nào, nhưng người thật sự rất xinh đẹp, da dẻ nõn nà, sóng mắt đưa đẩy, chỉ cần người nào được coi trọng nhìn thoáng qua một cái cũng lập tức như mất hồn.
Lại có người nói, bây giờ muốn xem Kim Tương Tuyệt khiêu vũ cũng không dễ dàng, ông chủ của cô ấy cũng thật biết làm ăn, mỗi tối thứ ba sẽ đấu giá một món trang sức của cô ấy, người thắng mới có thể lên tầng hai xem cô ấy khiêu vũ. Những món trang sức kia đều là thứ tầm thường, nhưng giá đấu giá thì cứ tăng cao.
Người nói nồng nhiệt, người nghe cũng cười đầy mờ ám. Hắn hỏi, giá cả cao như vậy, chỉ để xem một điệu múa? Chỉ có một điệu múa thôi sao?
“Chỉ một điệu múa, chỉ có một điệu múa thôi.” Người đang nói dập tắt điếu thuốc, giọng đầy ẩn ý: “Ông chủ của cô ấy cũng không phải thứ tốt gì. Kim Hồng Mai đang lúc nổi tiếng ở Bách Nhạc Môn, những cái mà anh thèm muốn, bọn họ phải giữ trong tay, treo giá, chờ đến lần đấu giá nào đó mới đòi giá cao.”
Hai người đó đi khỏi, Tư Thất mặc bộ vest đen lạnh lùng đứng trước cửa, ngón tay xoay bánh xe của chiếc bật lửa, trong tay lóe lên từng đốm lửa nhỏ.
Ngoài việc chờ Trình tiên sinh trước Bách Nhạc Môn, phần lớn thời gian cậu ta đều ở trên xe. Trình tiên sinh bận rộn công việc, mỗi ngày có nhiều người đến thăm hỏi. Cậu ta lái xe chở Trình tiên sinh qua những con đường lớn nhỏ của Thượng Hải, tựa như đang chạy nhanh trên các con phố ở Bắc Bình thời niên thiếu. Thời gian lâu dần, Trình tiên sinh bắt đầu tin tưởng cậu ta, nói chuyện với người khác trên xe cũng không tránh mặt. Cậu ta nghe họ nói về các giao dịch lớn và tỷ giá hối đoái, tiếp sau đó đều là những con số trên trời. Thỉnh thoảng xen giữa các cuộc làm ăn họ cũng tán gẫu về thời cuộc, cậu ta nghe Trình tiên sinh nói, không biết khi nào chiến tranh sẽ cháy lan đến đây, mất Đông Bắc là do quân đội không giữ được, Thượng Hải quyết không thể chưa đánh đã mất.
Khói lửa của thời đại rơi xuống người, là núi. Nhưng khi chưa rơi xuống thì chỉ là gió thoảng bên tai. Sóng lớn ập đến, người bình thường chỉ biết tự cầu phúc.
Hôm đó, Tư Thất lại đưa Trình tiên sinh đến Bách Nhạc Môn, đang chuẩn bị quay lại xe thì Trình tiên sinh ngoảnh lại vẫy tay gọi cậu ta. Ông ấy nói, Tư Thất, hôm nay Lữ tiên sinh làm chủ, muốn làm cho không khí náo nhiệt một chút, cậu cũng vào đi. Cậu ta sững sờ rồi lập tức gật đầu, quay lại đỗ xe vào chỗ thường ngày, sau đó tháo găng tay bước vào trong.
Đều nói người đẹp vì lụa, thực ra quần áo thế nào cũng phải xem người mặc. Tư Thất chọn chất liệu và gia công may đều là loại trung bình, nhưng khi bước vào Bách Nhạc Môn, ánh đèn chiếu lên bóng người hỗn loạn, chỉ có thể thấy một bóng hình cao gầy, vậy mà cũng rất có kiểu cách. Nhóm ông chủ Trình ngồi cùng nhau, cậu ta cũng tìm một góc ngồi xuống. Trên sân khấu, ca sĩ nữ yêu diễm cất giọng hát, giọng ca lả lướt, tiệc tùng linh đình, làm người ta quên mất ngoài cửa Bách Nhạc Môn vẫn có người chờ một bát cháo cứu tế của chính phủ trong gió lạnh.
Tư Thất ngồi ở một góc ghế sofa, nghe hai người bên cạnh nói chuyện.
“Hôm nay vẫn không gặp được Kim Hồng Mai?”
“Không gặp. Người ta ở phòng riêng trên tầng ba, đâu phải khách bình thường có thể gặp.”
“Trình tiên sinh cũng là khách bình thường?”
“Sao anh biết ông ấy chưa từng vào phòng riêng? Hôm nay Lữ tiên sinh chủ trì, không phải bữa tiệc riêng, nếu không anh và tôi làm sao vào đây được?”
Tư Thất với tay cầm ly rượu trên bàn, uống một ngụm.
“Nói trở lại, thứ ba tuần sau trang sức của Kim Hồng Mai lại sắp được đấu giá. Nghe nói lần này giá khởi điểm là số này, tuy ông chủ không nói rõ, nhưng ai mà không biết, buổi đấu giá tuần sau không chỉ là trang sức kia.”
“Dây chuyền vòng tay đều đã đấu giá rồi, lần này cô ấy đấu giá cái gì?”
“Vẫn như mọi khi, hàng rẻ tiền, nghe nói là một cây trâm hoa sen.”
Tay của Tư Thất bất động, rượu tràn ra từ mép môi, rơi vào cổ áo sơ mi trắng, nhuộm thành một vệt đỏ. Có một vũ nữ đi cùng quay đầu lại thấy cậu ta, dùng khăn tay lau giúp. Cậu ta nâng mắt nhìn qua, khuôn mặt người phụ nữ ẩn sau lớp trang điểm đậm, cũng là một đôi mắt đen như cánh bướm, trên đầu đội chiếc mũ ren đen.
Đêm đó nhóm người Trình tiên sinh chơi đến rất khuya, Tư Thất cũng luôn chờ bên cạnh. Cậu ta là tài xế, trước giờ luôn là chủ thuê bận đến khi nào thì cậu ta sẽ chờ đến khi đó. Đợi Bách Nhạc Môn tan hết người, cuối cùng cậu ta mới đỡ Trình tiên sinh lên xe, đưa ông ấy về nơi ở trên đường Đồng Nhân. Màn đêm yên tĩnh, Trình tiên sinh ngồi ghế sau hỏi tại sao chân cậu ta lại bị què, cậu ta nói trước đây mình mưu sinh trong đoàn kịch, trèo cao nên ngã gãy chân.
Trình tiên sinh nói: “Tôi bị người ta đánh què.”
Từ nhỏ đầu óc cậu ta đã tỉnh táo, bây giờ cũng vậy, người làm thuê thì chỉ nên tiếp nhận cảm xúc của ông chủ mà không hỏi sâu hơn. Chiếc xe từ từ chạy về sân nhà họ Trình trên đường Đồng Nhân, đèn phòng ngủ chính trên tầng thượng vẫn sáng, người nhà Trình tiên sinh vẫn đang đợi ông ấy. Sau khi đỗ xe, cậu ta không theo lời quản gia dạy lập tức mở cửa xe giúp Trình tiên sinh, mà là tắt đèn xe, hơi xoay người lại, hỏi: “Trình tiên sinh, tấm séc đó, vẫn còn hiệu lực chứ?”
Trình tiên sinh hơi tỉnh rượu, mở to mắt nhìn cậu ta. “Cậu cần tiền? Bao nhiêu?”
“Còn chưa biết.” Tư Thất nói: “Tuần sau mới biết được, tôi muốn đấu giá… trang sức của Kim Hồng Mai.”
Trình tiên sinh ngẩn người, sau đó lập tức cười lớn. Tư Thất biết mình lật lọng, yên lặng chờ sự đồng ý hoặc từ chối của chủ thuê. Trình tiên sinh hút xong điếu thuốc trong tay, nhìn lên trần xe, nhả ra một vòng khói thuốc màu xám chì.
“Không phải cậu muốn tiền, mà là muốn phụ nữ.” Trình tiên sinh nói: “Đáng tiếc ông chủ hiện tại của Bách Nhạc Môn là một người cứng đầu, không phải chỉ dùng tiền là có thể dẫn người ra ngoài được. Nhưng mà gặp mặt một lần thì không khó, thế này đi, ngày mai cậu lại đưa tôi đến Bách Nhạc Môn, tôi sẽ bảo họ hủy buổi đấu giá, tối thứ ba tuần sau cậu có thể đi tìm cô ấy.”
Lúc này Trình tiên sinh chuẩn bị xuống xe, Tư Thất mở cửa xe thay ông ấy, lại đưa ông ấy đến cửa nhà. Trình tiên sinh quay đầu nhìn cậu ta, nói: “Tư Thất, tôi chưa từng nợ ai điều gì. Thứ ba tuần sau cậu đến đó, cái mạng tôi nợ cậu đã trả xong.”
“Tôi hiểu.” Tư Thất nói: “Tôi cũng không nợ ai điều gì.”
***
Buổi đấu giá bị hủy bỏ dưới danh nghĩa của Trình tiên sinh. Dù điều này khiến những khách hàng từng chi tiền cho Kim Hồng Mai cảm thấy bực tức, nhưng họ không dám đắc tội với Trình tiên sinh. Người trên phố chỉ tò mò, Trình tiên sinh luôn hành sự thận trọng, không giống người có thể vung tiền như rác vì một phụ nữ.
Bên ngoài nói không sai, nhưng người vung tiền như rác là Tư Thất. Khi cậu ta còn lại ba xu để mua vé tàu thì đã cho cô ấy ba đồng xu đó. Khi cậu ta tiết kiệm được một đồng lúc làm học việc, cũng để dành một đồng đó cho cô ấy. Hiện giờ cậu ta nhận được ân tình khi cứu mạng người khác, vẫn dành phần ân tình đó cho cô ấy.
Nhưng Kim Hồng Mai không biết cậu ta sẽ đến, cô ấy vẫn tưởng người đến là Trình tiên sinh. Ngoài người sắp xếp cho Tư Thất vào, những người khác ở Bách Nhạc Môn cũng nghĩ như vậy. Thậm chí họ đã chuẩn bị khăn trùm đầu đỏ cho cô ấy, dự định để Trình tiên sinh vén lên để tìm sự may mắn mới. Tóm lại, vũ công ở Bách Nhạc Môn cũng khó mà tính chuyện hôn nhân, đây cũng là một trong những trò ông chủ học được qua nhiều năm kinh doanh.
Nhưng cô ấy không mặc áo cưới, vẫn là chiếc váy múa màu tím đỏ thêu chỉ vàng, ngồi yên lặng trên ghế, hai bàn tay đặt lên nhau, lòng bàn tay hướng lên trên. Tư Thất đẩy cửa bước vào thì bắt gặp cảnh tượng như vậy, cậu ta im lặng đi đến ngồi xuống bên cạnh cô ấy, sau đó đặt chiếc trâm hoa sen vào lòng bàn tay cô ấy.
Kim Hồng Mai nhìn thấy bàn tay từ dưới khăn trùm đầu, giọng nói nhuộm ý cười: “Trình tiên sinh, ngài đã đấu giá được thì nó là của ngài.”
“Trình tiên sinh, sao ngài không nói gì?”
“Trình tiên sinh, khăn voan này là để ngài vén lên…”
Khăn trùm đầu bị kéo xuống từng chút một, Tư Thất buông mắt nhìn cô ấy, thấy khuôn mặt tươi cười của cô ấy dần cứng lại, lông mi như cánh bướm cũng không còn động đậy. Bàn tay vừa nắm hờ dần dần siết chặt lại, chiếc lá hoa sen cắm sâu vào thịt lòng bàn tay. Môi cô ấy chậm rãi mở ra như khi ở trong miếu, trên tàu hỏa, trong gác mái, nói từng từ một: “Tư Thất…”
Trên mặt cậu ta rất sạch sẽ, trước khi cô ấy vào Bách Nhạc Môn cũng ít khi thấy mặt cậu ta sạch sẽ như vậy. Cậu ta cởi áo khoác treo lên lưng ghế, bên trong là áo len cổ cao màu đen bó sát, vai rộng, cổ tay xắn lên hai lần, trên cổ tay có chiếc đồng hồ mặt kính vỡ nát, Kim Hồng Mai cũng từng thấy chiếc đồng hồ đó trên tay Trình tiên sinh.
Đến lúc này cô ấy mới biết người bị bắn trước Bách Nhạc Môn hôm đó là Tư Thất
Cậu ta kể qua loa về những gì đã trải qua sau khi cô ấy vào Bách Nhạc Môn, cả việc bị bắn cũng nói rất mơ hồ, chỉ nói máu chảy rất nhiều, nằm viện hai ngày thì xuất viện, cô ấy cũng biết hôm nay cậu ta đến đây là do Trình tiên sinh đang trả lại ân tình viên đạn đó cho cậu ta. Cô ấy hỏi có phải cậu ta trách mình hôm đó không đến không, Tư Thất lắc đầu, nói: “Em trai em phẫu thuật xong đã đến hỏi tôi em đã đi đâu, kể lại sự việc đêm đó với tôi. Kim Tương Tuyệt, em chính là như vậy.”
Cậu ta gọi cô ấy là Kim Tương Tuyệt, khiến cô ấy tỉnh lại. Thật kỳ lạ, nếu người đến là Trình tiên sinh, cô ấy đã chuẩn bị tâm lý. Nhưng người đến là Tư Thất, ngược lại cô ấy không biết phải làm sao. Tư Thất nói xong, lấy đồng hồ và một ít tiền trong áo khoác ra, đặt lên bàn rồi nói với cô ấy: “Em ngủ đi, tôi đi đây.”
“Tư Thất!” Cô ấy gọi cậu ta lại.
Cậu ta dừng bước.
“Qua đêm nay, không cho anh thì cũng cho người khác.” Cô ấy bối rối, không biết mình đang nói gì: “Tôi không quan tâm những thứ đó, nhưng tôi… tôi sợ đau.”
Cô ấy có chút sợ đau, chắc hẳn cậu ta cũng sợ cô ấy đau.
Cậu ta bị cô ấy gọi lại, chậm rãi quay người. Cô ấy vẫn nắm chặt chiếc trâm trong tay, dưới hoa sen một chiếc lá trĩu xuống. Cô ấy đặt tay lên ngực, cơ thể khẽ động làm chiếc lá cũng rung theo. Tư Thất cúi đầu nhìn chiếc lá sen, tay cậu ta từ từ chạm vào nút áo.
Lúc áo mỏng rơi xuống đất, cậu ta chợt nhớ đến những ngày ở trong miếu, mình nằm dưới tượng thần, cô ấy thì nằm bên cạnh. Đêm gió lạnh nổi lên, cô ấy sẽ nghiêng người đến cạnh cậu ta. Lại nhớ đến hai đêm trên tàu, cô ấy chê sàn xe cứng, cũng đến tìm cậu ta. Cô ấy sợ lạnh sợ cứng sẽ đến tìm cậu ta, bây giờ sợ đau, cũng như vậy.
Áo được cởi ra, trên eo cô ấy hiện rõ một vết sẹo. Tư Thất đặt tay lên đó, cô ấy bị lạnh trốn về phía sau, lại bị cậu ta giữ lấy. Bàn tay cầm bánh lái ôm lấy eo cô ấy, ấm áp như ngọc.
“Sao lại có vết sẹo này?” Cậu ta hỏi.
“Lúc mới đến đây không biết cười.” Cô ấy nói: “Ông chủ cho người đánh.”
“Ai đánh?”
“Người mặc áo màu than chì đứng ở cửa.”
“Được, mai tôi sẽ tìm hắn.”
“Tư Thất à…”
Tay cô ấy cũng đặt lên cơ thể cậu ta, thon gọn và lạnh lẽo, trên bụng có một vết đạn. Cô ấy dùng đầu ngón tay chậm rãi vuốt ve khiến người cậu ta hơi cong lên, mới nhẹ nhàng vạch trần: “Nói dối cũng không biết, thế này mà hai ngày có thể khỏi sao?”
Cậu ta bị người ta chạm vào đến không dám lên tiếng, cắn chặt khớp hàm, đàn ông kêu ra tiếng sẽ rất mất mặt. Sau đó cầm cái tay kia ra, phía sau đầu cô ấy cài một chiếc trâm, gỡ xuống, mái tóc đen đổ xuống vai cậu ta như thác nước.
Dù đã kiềm chế, nhưng cuối cùng nước mắt cô ấy vẫn rơi lên khóe mắt cậu ta. Cô ấy đặt môi bên tai cậu ta, mang theo nước mắt nói: “Tư Thất, đừng đến tìm tôi nữa. Qua đêm nay, Kim Tương Tuyệt sẽ chết, tôi muốn kiên định làm Kim Hồng Mai thật sự.”
[Thượng Hải, năm 1937.]
Thế sự càng ngày càng loạn.
Không ai biết mưa gió sẽ đến lúc nào, nhưng ai cũng biết nó sẽ đến. Thượng Hải không yên ổn, trong và ngoài tô giới đều sóng ngầm mãnh liệt, vì tiền, vì quyền. Người nhà của Trình tiên sinh lo lắng, bảo ông ấy thuê thêm vệ sĩ đi theo, nhưng ông ấy nói người nhiều thì mắt càng hỗn tạp nên bảo Tư Thất học bắn súng. Vạt áo vest khâu thêm túi súng, nòng súng hướng xuống giấu trong áo, từ bên ngoài nhìn vào chỉ thấy eo hơi phồng lên. Thực sự có lần xảy ra chuyện, Tư Thất giơ súng bắn, trên trán người phục vụ khách sạn xuất hiện một lỗ máu. Bên ngoài khen Trình tiên sinh có con mắt tinh tường, giữa biển người mênh mông chọn một người què, cứu mạng mình hai lần. Bên Bách Nhạc Môn, Kim Hồng Mai cũng ngày càng nổi tiếng, trở thành vũ nữ nổi tiếng nhất, có thể nói là trụ cột cũng không ngoa, ai cũng muốn gặp cô ấy một lần.
Nhưng Tư Thất không bao giờ vào Bách Nhạc Môn nữa.
Cậu ta đưa Trình tiên sinh đến cửa nhưng không vào, thậm chí cũng không dừng lại lâu. Rất hiếm khi cậu ta mới tình cờ thấy Kim Hồng Mai được xe người khác đưa đi qua đêm. Hai chiếc xe lướt qua nhau, không ai quay đầu lại.
Hôm nay lại là thứ ba.
Sau khi đưa Trình tiên sinh đến trước Bách Nhạc Môn, Tư Thất lại muốn đi, nhưng Trình tiên sinh quay lại hỏi.
“Hôm nay có buổi đấu giá, trang sức là chuỗi vòng tay ngọc.” Ông ấy nói: “Nghe nói Kim tiểu thư hiếm khi xuất hiện. Tư Thất, cậu không vào sao?”
Trên mặt Tư Thất không có biểu cảm, nhưng trong lòng lại nghĩ, nhân vật lớn như Trình tiên sinh mà cũng thích xem trò vui của cậu ta. Cậu ta lắc đầu, nói “Không cần” xong thì quay lại xe ngay, lái đi luôn.
Khi đi qua ngã rẽ, đường phố hơi tắc nghẽn, vài chiếc xe kéo lần lượt nhường đường trong tiếng còi inh ỏi, Tư Thất cũng lái xe vào lề. Một chiếc xe khác lướt qua cậu ta, cả hai đều hạ cửa kính, Tư Thất thấy một người đàn ông trẻ tựa vào cửa sổ xe. Hắn thờ ơ nhìn ra ngoài cửa sổ, ánh mắt không dừng lại trên người Tư Thất, nhưng không hiểu sao cậu ta cảm thấy ánh mắt đó rất quen thuộc, nhìn chúng sinh như nhìn kiến. Trời tối quá, cậu ta không nhìn rõ trang phục đối phương, chỉ thấy mặt cắt viên đá ở cổ tay áo phản chiếu ánh sáng xe.
Đêm đó nghe nói có một khách hàng trẻ tuổi đấu giá chuỗi vòng ngọc của Kim Hồng Mai với giá trên trời, là vì cô ấy nhưng cũng không hẳn vậy. Người ta đồn đó là cậu chủ nhà họ Uyển, Uyển Thành Trúc, đến Thượng Hải để bàn chuyện làm ăn, trên thương trường đã thắng đối thủ, khi gặp lại ở chốn ăn chơi cũng không nhường nhịn.
Quá cực đoan rồi, ngày hôm sau Trình tiên sinh đã đánh giá lúc ngồi trên xe của Tư Thất. Thượng Hải không như Bắc Bình, không phải là nhà quyền thế thì sẽ cao hơn người khác một bậc. Mình ăn thịt cũng phải để người khác uống canh. Đến địa bàn người khác mà lỗ mãng như vậy sẽ phải chịu thiệt lớn.
Tư Thất vẫn nghe như thường lệ, không nói gì.
“Nhưng đây cũng là đứa nhỏ có triển vọng. Những ai từng đụng độ đều nói cậu ta có thủ đoạn, khi đàm phán rất lão luyện.” Trình tiên sinh nói tiếp, con ông ấy không chịu hăng hái tranh giành, nhìn nhà người khác luôn thấy ngưỡng mộ: “Khi còn trẻ tính tình hung hãn một chút, trải qua vài lần vấp ngã, ăn chút dạy dỗ, tới tuổi này của tôi là vừa vặn. Không biết đứa con lớn nhà họ Uyển này là người thế nào, Tư Thất, khi còn ở Bắc Kinh, cậu đã nghe qua chưa?”
“Chưa từng nghe.” Cậu ta nói.
Ngày đó cậu ta đưa Trình tiên sinh đến Bách Nhạc Môn, tối đến lại đụng phải cậu chủ nhà họ Uyển. Vẫn là chiếc xe đó, cửa sổ hạ xuống, người ngồi phía sau từ từ nhắm hai mắt nửa ngủ. Cậu ta nhịn không được mà nhìn qua, thấy hắn khẽ nhíu mày, ngón tay nhẹ nhàng xoa bên lông mày. Hai xe gặp nhau đều tránh sang bên cạnh một chút, nhưng đều dừng lại vì xe kéo đi qua. Tư Thất nghe trong xe truyền ra tiếng nói: “Đây là trâm bạc và vòng vàng cho Kim tiểu thư, ngài xem…”
“Mua là được rồi, lát nữa nhảy xong thì đưa vào hậu trường thay tôi.”
Xe kéo đã nhường đường, xe của cậu chủ Uyển cũng rời đi. Tư Thất đỗ xe ở góc giao lộ một lúc lâu không di chuyển, bị xe kéo phía sau ồn ào thúc giục mấy câu mới từ từ lăn bánh.
Trong vòng một tháng, cậu chủ nhà họ Uyển này đã nổi danh khắp Thượng Hải, làm nhiều ông chủ sứt đầu mẻ trán. Có tranh chấp đến tìm Trình tiên sinh giải quyết, ông ấy cũng lạnh lùng cười: “Ngay cả một tên nhóc cũng không đối phó được, còn đến tìm tôi đòi công bằng? Tôi là quản gia giải quyết hậu quả cho các người à?”
Tuy nói chuyện khó nghe, nhưng khi cần vẫn phải ra mặt. Cuối cùng, xe của Tư Thất cũng đến khách sạn nơi Uyển Thành Trúc ở lại, thư ký đi cùng Trình tiên sinh lên lầu gặp Uyển Thành Trúc. Cậu ta dừng xe đợi dưới lầu, bên cạnh cũng có một chiếc xe khác, Tư Thất nhìn thoáng qua, thật trùng hợp, là chiếc Studebaker kia của Uyển Thành Trúc.
Trong xe có hai người đàn ông, áo đen ngắn, chân đặt lên vô lăng hút thuốc. Tư Thất định nâng cửa kính xe lên, lại nghe thấy người ngồi ở ghế lái nói: “Không phải cậu chủ chúng ta thật sự động chân tình với cô vũ nữ kia chứ?”
Cửa kính nâng lên một nửa, cậu ta dừng tay.
“Sao có thể? Hai người đều gặp dịp thì chơi thôi, một người tìm vui, một người dỗ người khác vui. Cậu chủ Uyển có thân phận gì? Kết cục của dì nhỏ kia trong nhà họ ai cũng thấy rõ, hắn còn dám giẫm lên vết xe đổ sao?”
“Thì cứ coi như hắn không dám đi, chỉ là tiêu tiền hào phóng thôi.”
“Ha ha ha ha, tiêu tiền cũng kiếm tiền, chuyến này đến Thượng Hải thu được bao nhiêu lợi nhuận? Gia chủ còn lo hắn du học về sẽ mang nặng dáng vẻ tri thức, ai ngờ vào thương trường lại là người ăn thịt không nhả xương!”
“Cũng đúng, chỉ sợ Trình tiên sinh kia sẽ bị lột mất một lớp da.”
“Nơi này có chút nắng, dời đi thôi, lát nữa cậu chủ lên xe lại kêu nóng.”
“Được rồi.”
Xe bên cạnh di chuyển đi, để lại Tư Thất ngồi trong xe của Trình tiên sinh. Đợi thêm nửa tiếng nữa, cuối cùng Trình tiên sinh và thư ký cũng xuống lầu, Uyển Thành Trúc vậy mà còn đi theo sau tiễn, trên mặt mang nụ cười đúng mực. Trình tiên sinh không nói lời nào, thư ký cũng vậy, hai người ngồi vào ghế sau, Tư Thất nổ máy, bỗng nghe thư ký lạnh lùng trách mắng: “Tư Thất, sao lại đậu xe dưới nắng như vậy? Trong xe nóng quá!”
Tư Thất ngớ người, khẽ đáp: “Đúng, là do tôi làm việc không chu đáo.”
Sau cuộc gặp chẳng mấy vui vẻ với Trình tiên sinh, bên Uyển Thành Trúc lập tức truyền ra tin tức hắn sắp rời khỏi Thượng Hải, mấy hợp đồng đang đàm phán cũng lần lượt hoàn tất, thời gian còn lại, hắn chỉ toàn tâm toàn ý ngâm mình ở Bách Nhạc Môn. Tư Thất ngồi ở ghế lái nghe thư ký nói hắn sẽ đi chuyến tàu cuối cùng trước Tết để rời khỏi đây, cuối cùng nhóm người cùng nghề ở Thượng Hải cũng có thể yên ổn đón năm mới.
Đêm trước chuyến xe lửa kia, Tư Thất lại chạm mặt Uyển Thành Trúc ở Bách Nhạc Môn, nhưng lần này hắn không vào mà là rời khỏi. Tư Thất đưa Trình tiên sinh xuống xe, Uyển Thành Trúc từ trong cửa Bách Nhạc Môn bước ra, tay ôm Kim Hồng Mai. Hắn gật đầu chào nhưng Trình tiên sinh lại giả vờ không thấy. Trong lòng Tư Thất biết, người giả vờ không thấy người khác không chỉ có Trình tiên sinh.
Không ai ngờ tới, đêm đó đã xảy ra chuyện lớn.
Sáng sớm hôm sau, theo thông báo của sở cảnh sát, dưới cầu Đông Tân có một chiếc xe Studebaker hiếm hoi ở Thượng Hải, bên trong tìm được hai xác chết trương phồng, là tài xế và thư ký của Uyển Thành Trúc, cả hai đều có lỗ máu trên đầu. Khách sạn nơi Uyển Thành Trúc và nhóm của hắn nghỉ lại cũng đã báo cảnh sát, tính toán một chút, trong tám người nhà họ Uyển đến Thượng Hải thì bảy người đã chết, chỉ còn lại Uyển Thành Trúc không ở trong xe mất tích và người đêm đó đi cùng hắn là Kim Hồng Mai cũng không thấy tung tích.
Tin tức lan truyền.
Sau đêm đó, Tư Thất lái xe đâm phải người khác, tính nhầm sổ sách, quên để súng trong áo, bị Trình tiên sinh tạm đình chỉ công tác một tháng, không thể làm thì cút. Em trai Kim Hồng Mai cũng đến tìm cậu ta, hỏi cậu ta có biết chuyện gì xảy ra không. Tư Thất lạnh lùng nhìn cậu nhóc hồi lâu, nói năng cay nghiệt đến không giống mình.
“Sao vậy?” Cậu ta hỏi: “Sợ cô ấy chết rồi không ai gửi tiền về nhà nữa?”
“Tôi thực sự lo cho chị tôi!” Em trai cô ấy sốt ruột muốn khóc.
Tư Thất giơ tay lấy đồ ném vào cậu nhóc: “Cút!”
Cậu ta muốn oán trách ai đó, nhưng có thể trách ai đây? Vận mệnh dồn ép họ từng bước đến nơi này, mỗi một ngã rẽ đều không cho lựa chọn nào khác. Cậu ta nằm ở nhà mấy ngày, hôm đó mở cửa ra, thấy trên đất đặt một mảnh vải xé xuống từ áo, bên trong bọc một cây trâm hoa sen, trên cán trâm cuộn một tờ giấy, trên đó ghi một địa chỉ với nét chữ xiêu vẹo, dòng cuối cùng nhỏ xíu: “Đến gặp tôi”.
Có trâm cài, cô ấy còn sống.
Từ khi theo Trình tiên sinh Tư Thất mới học biết chữ, còn Kim Hồng Mai học từ đâu? Cậu ta có một dự đoán không mong muốn, nhưng vẫn mang theo thức ăn và quần áo đến địa chỉ trên mảnh giấy. Nơi đó nằm ngoài ranh giới Thượng Hải, là một ngôi làng nhỏ ở nông thôn theo hướng Tô Châu. Qua cầu lại đi thuyền, mùa đông trên mặt nước đều là những đám sen tàn úa. Từ đường thủy đi vào, lại là con kênh hẹp và những ngôi nhà ven sông, con thuyền đi qua dưới cầu, cậu ta ngẩng đầu lên, thấy trước cửa một nhà có người đang gội đầu bên sông, một gáo nước dội lên thấm ướt mái tóc đen dài. Sau đó tóc được vén lên, lộ ra một khuôn mặt xinh đẹp.
Cậu ta đứng trên thuyền nhìn người đó, trong lòng tràn đầy bi thương và vui sướng, lại cảm thấy trống rỗng. Phảng phất nhớ lại mùa đông năm đó ở Bắc Bình, cậu ta muốn đưa chén cháo của mình cho cô ấy, lại bị một người khác đoạt trước. Cậu ta đứng sau lưng cô ấy, nghĩ cũng không đến lượt mình, lúc này đây, có lẽ cũng như vậy.
Về phần người có được cơ hội kia, hắn bước ra từ sau lưng Kim Hồng Mai, sắc mặt vẫn còn chút tái nhợt, nhưng vẻ mặt lại bình tĩnh và vui vẻ. Hắn nhận lấy gáo nước từ tay cô ấy, dội lên tóc lần nữa, dùng tay gỡ những sợi tóc đen, dùng khăn từ từ thấm khô nước thay cô ấy. Hai người làm xong mới ngẩng đầu nhìn Tư Thất, cậu ta nghe thấy cậu chủ Uyển nhẹ nhàng hỏi: “Đây là Tư tiên sinh mà em nói à, sao lại có chút quen mặt?”
Đương nhiên là quen rồi, năm đó trên phố Bắc Bình hắn cho cậu ta một chén cháo, sau đó trên đường phố Thượng Hải cũng nhiều lần ngồi trong xe lướt qua nhau. Nhưng hắn làm sao nhớ được cậu ta? Đôi mắt của hắn sinh ra là để nhìn xuống chúng sinh, nhìn cậu ta cũng chỉ như nhìn một con kiến. Hiện giờ trong đôi mắt đó cuối cùng cũng có một người, là Kim Hồng Mai.
Cậu ta không mấy quan tâm đến việc họ diễn kịch ở Bách Nhạc Môn, Bách Nhạc Môn là một vũ trường, những thứ trên sân khấu kia dù thật cũng là giả. Còn bây giờ? Cầu nhỏ nước chảy, khói lửa nhân gian, trên sông mui thuyền đen, những thứ này đều là thật, tất cả đều là thật.
Tựa như Tư Thất nắm chặt cây trâm sen trong tay, đâm vào lòng bàn tay đau đớn, cảm giác đau cũng là thật.
Uyển Thành Trúc giúp cậu ta lên bờ, một người như hắn lại giúp người khác lên bờ. Kim Hồng Mai đứng dậy đẩy hắn ra, nắm tay Tư Thất kéo lên, quay đầu nhỏ giọng trách: “Đã bảo anh ngồi im, vết thương do súng hai tuần có thể lành sao?”
Đúng vậy, Tư Thất nghĩ, vết thương do đạn bắn đương nhiên hai tuần không thể lành, lần đó cậu ta nằm viện ba tháng. Vậy Uyển Thành Trúc phải dưỡng thương ở đây bao lâu? Hắn còn muốn sống những ngày bình dị như vậy với Kim Hồng Mai bao lâu nữa?
Cậu ta theo Kim Hồng Mai về nhà họ bên bờ sông, lơ đãng nghe cô ấy kể lại chuyện đêm đó. Xe của Uyển Thành Trúc bị theo dõi, khi lên cầu thì gặp phải kẻ chặn đường. Tài xế tưởng là kẻ lừa đảo nên xuống xe đuổi đi, kết quả lại bị bắn vỡ đầu. Tiếng súng nổ loạn xạ, thư ký ngồi ghế phụ cũng bị trúng đạn. Họ bắn thủng lốp xe, trước sau xe đều bị bao vây, Uyển Thành Trúc dẫn cô ấy nhảy xuống sông, dùng cơ thể che chắn cho cô ấy, khi rơi xuống nước cũng bị bắn.
“Nhà họ Uyển đã cử người đến Thượng Hải rồi.” Tư Thất nói: “Nghe nói anh cả của anh rất lo lắng, anh không định trở về sao?”
“Nếu anh ta muốn giết tôi thì sao?” Uyển Thành Trúc khẽ mỉm cười hỏi lại.
“Chỉ là suy đoán.” Kim Hồng Mai bổ sung, có vẻ như họ đã thảo luận qua rất nhiều lần: “Cũng có thể do anh ấy… hành động quá lộ liễu, chọc giận các băng nhóm ở Thượng Hải. Tóm lại, chúng ta cứ tạm lẩn trốn ở đây, đợi khi sóng gió qua đi, cơ thể anh ấy cũng hồi phục rồi trở về cũng không muộn.”
“Vậy còn em? Tôi nghe nói ông chủ của em cũng rất tức giận, dù sao hiện giờ em…”
Kim Hồng Mai lắc đầu: “Nếu tôi về, sở cảnh sát sẽ bắt tôi đi để hỏi tung tích anh ấy, tôi biết nói thế nào?”
Tư Thất: “Tôi hiểu rồi.”
Cậu ta hiểu, cũng không muốn nghe thêm nữa. Từ Thượng Hải đến đây mất nửa ngày, hôm đó Kim Hồng Mai đã giữ cậu ta lại qua đêm. Sau bữa tối, Uyển Thành Trúc đi dọn dẹp bát đĩa, Tư Thất thấy thú vị, đi ra bờ sông châm thuốc nhìn những chiếc thuyền mui đen qua lại.
Đợi một lát, cô ấy cũng ra ngồi cùng cậu ta.
Cô ấy cũng học hút thuốc rồi, đã học được từ lâu. Cậu ta dùng bật lửa châm thuốc cho cô ấy, giữa ranh giới ngày đêm, đầu ngón tay lại dấy lên một đốm lửa. Làn khói xanh mờ ảo kia tản ra trên dòng sông, giọng nói của Kim Hồng Mai cũng trở nên mơ hồ.
“Tư Thất, Bách Nhạc Môn canh chừng tôi quá chặt. Tôi không thích cuộc sống ở đó, muốn trốn ra một thời gian, không làm Kim Hồng Mai nữa, anh có hiểu không?”
“Ừ.”
“Tư Thất à…”
Cậu ta quay đầu nhìn về phía cô ấy, không chịu nổi khi cô ấy gọi mình như vậy. Trong ánh sáng mờ ảo, khuôn mặt cô ấy như một bức tượng thần được làn khói bao quanh, đôi mắt buông xuống, nhìn những chiếc thuyền mui đen qua lại.
Cô ấy không cần nói thêm gì nữa.
Uyển Thành Trúc ở quê cùng Kim Hồng Mai ba tháng, cũng biến mất khỏi thế gian ba tháng. Sở cảnh sát bị nhà họ Uyển theo dõi cũng đã tìm ra tên côn đồ nổ súng đêm đó, nhưng kẻ đứng sau là ai thì không truyền ra ngoài. Không tìm thấy thi thể của Uyển Thành Trúc, vụ án cũng trì trệ không thể khép lại. Chỉ có Tư Thất biết, hắn đang sống những ngày bình dị tại vùng quê ven sông ở Tô Châu, cùng Kim Hồng Mai học viết chữ, học tiếng Anh, giúp cô ấy chải đầu kẻ mày, hứa hẹn sẽ cho cô ấy một đám cưới đàng hoàng.
Cũng tốt, Tư Thất bỗng nhiên hiểu ra.
Thứ cậu ta cần không phải con người cô ấy, mà muốn cô ấy cả đời an vui. Uyển Thành Trúc có thể đưa cô ấy rời khỏi Bách Nhạc Môn, cậu ta không thể. Giống như năm đó ở Bắc Bình, Uyển Thành Trúc có thể cho cô ấy hai chén cháo, mà cậu ta muốn cho cô ấy một bát, thì bản thân phải nhịn đói.
Cô ấy nên ở bên Uyển Thành Trúc, còn Tư Thất, từ đầu đã đến muộn.
Nhưng mà, thật là không công bằng.
Bát cháo cậu ta muốn cho, cũng là tất cả của cậu ta rồi.
***
[Thượng Hải, năm 1938.]
Uyển Thành Trúc xuất hiện lần thứ hai ở Thượng Hải, hiệu quả như sống lại từ cõi chết. Việc từng chết một lần không ảnh hưởng đến hành động cao ngạo của hắn, hắn đưa Kim Hồng Mai về Bách Nhạc Môn, nói rõ với các vũ nữ, khách hàng và ông chủ, thời gian Kim Hồng Mai ở lại Bách Nhạc Môn không còn nhiều, tháng này hãy chăm sóc cô ấy cho tốt, đợi đến mùa hè hắn từ Bắc Bình trở về sẽ đưa cô ấy đi.
Đoá hồng rực rỡ nhất của Bách Nhạc Môn đã bị người khác hái đi, phố phường lại có thêm đề tài bàn tán lúc rảnh rỗi. Người ta thêu dệt câu chuyện Uyển Thành Trúc mất tích ba tháng kia thành giai thoại truyền đi khắp hang cùng ngõ hẻm, hay cho một màn mỹ nhân cứu anh hùng, hoạn nạn thấy chân tình.
Về phần Tư Thất, cậu ta quay lại cạnh Trình tiên sinh, thành thật mà lái xe, làm người hầu trung thành. Khi sinh ra cậu ta là một đứa trẻ bị vứt bỏ dưới gầm cầu, lớn lên là một tên què, gặp vận may lớn được làm việc bên cạnh quý nhân, đời này còn mong đợi gì hơn?
Một tháng trôi qua, Uyển Thành Trúc không quay lại.
Hai tháng trôi qua, Uyển Thành Trúc không quay lại.
Ba tháng…
Huyền thoại thành trò cười, câu chuyện trở thành tin đồn nhảm. Ha, nói đến cuối cùng vẫn là mô típ cũ rích. Lại là câu chuyện cứu người chốn phong trần lỗi thời, cuối cùng người phụ nữ vẫn bị bỏ lại nơi phong trần. Ai cũng nghĩ cậu chủ nhà họ Uyển này là một người tình si hiếm có, kết quả — kết quả —
“Ầm ầm!”
Kim Hồng Mai đợi ở Bách Nhạc Môn đến ngày 7 tháng 7, ngọn lửa chiến tranh âm ỉ nhiều năm cuối cùng đã bùng nổ.
Bắc Bình đánh vào tháng 7, Thượng Hải chiến vào tháng 8. Một bên là quân chi viện từ khắp nơi tiến vào Thượng Hải, một bên là dân thường tay không tấc sắt rời khỏi vùng chiến sự. Trong tô giới thì tốt hơn một chút, nhưng người tỉnh táo biết lời hứa của người Nhật không đáng tin, đã bắt đầu thu dọn của cải từ sớm. Ông chủ Trình đưa vợ con đi Hồng Kông, ông ấy ở lại thêm một tháng cũng muốn đi, chỉ để lại vài người thân tín trông coi việc làm ăn, Tư Thất là một trong số đó.
Chiến sự bùng nổ, ai chạy thì chạy, ai đi thì đi. Kỳ lạ là Bách Nhạc Môn không đóng cửa.
Chiến sĩ trước lằn ranh sống chết, mỹ nhân dưới trướng vẫn múa ca. Trong lúc lửa đạn rơi xuống, ngược lại con người càng cần chỗ đốt tiền thế này, trốn vào đó là có thể quên đi ưu phiền ngoài kia. Trong lúc nguy cấp, Tư Thất nhận nhiệm vụ từ Trình tiên sinh, sứt đầu mẻ trán mấy ngày liền không ngủ. Cuối cùng chờ lấy lại tinh thần đã nghe tin có người Nhật gọi Kim Hồng Mai đi tiếp rượu, cô ấy không đi, mấy ngày trước bị bắt đi.
Cái tính tình của cô ấy…
Tư Thất phát điên.
Cũng may Trình tiên sinh giao cho cậu ta vài việc làm ăn, nên cũng giới thiệu vài mối quan hệ. Chạy vạy chừng mấy ngày, cuối cùng tìm được người, thừa dịp đêm khuya dẫn cô ấy ra. Tư Thất nơm nớp lo sợ đứng chờ ở góc đường, một chiếc xe chạy tới, cuối cùng có hai người đàn bước xuống cùng cô ấy. May là gần đây rất loạn lạc, cô ấy chưa kịp bị hành hạ. Nhưng không may là bị bỏ lại trong phòng mấy ngày không ăn uống, lại nhiễm lạnh, suy yếu đến nỗi đứng không nổi. Cậu ta đưa cô ấy về nhà, cô ấy sốt cao nửa mê nửa tỉnh, nằm trên lưng cậu ta nói: “Tư Thất, tôi lạnh quá, anh lấy thêm cái chăn từ mẹ đi.”
Tư Thất nhắm chặt mắt, nói: “Được, tôi đi lấy.”
Đợi một lát cô ấy còn nói: “Tư Thất, trên tàu hỏa ồn quá, anh bịt tai cho tôi đi, ồn quá tôi không ngủ được.”
Cậu ta vẫn đáp lời: “Được.”
Rốt cuộc cô ấy mơ thấy gì nhỉ? Tư Thất không biết. Nói nhiều lời nghe không rõ, cuối cùng lại mang theo tiếng khóc nức nở mà nói với cậu ta: “Tư Thất, họ đều bảo tôi đợi, nhưng không ai quay lại cả. Tôi không muốn đợi nữa, không muốn đợi ai nữa, sau này tôi sẽ tự mình đi.”
Tư Thất nói: “Tôi chưa bao giờ bảo em đợi.”
Nhưng cô ấy lại không trả lời.
Chiến sự bùng nổ, chỉ trong vài ngày mà bên ngoài tô giới đã trở nên hỗn loạn. Người bạn giúp Tư Thất cứu người hôm ấy tranh thủ loạn lạc đến tìm cậu ta, khuyên cậu ta nên nhanh chóng đưa Kim Hồng Mai đi. Viên sĩ quan Nhật Bản bắt cô ấy phát hiện cô ấy biến mất, tức giận đập phá đồ đạc, nói dù đào ba thước đất cũng sẽ tìm ra Kim Hồng Mai. Với tính cách ngang bướng đó của Kim Hồng Mai, nếu bị bắt lại lần nữa thì bản thân không thoát được không nói, mà cả những người giúp đỡ cô ấy cũng sẽ gặp rắc rối lớn.
Hai người họ đang nhỏ giọng nói chuyện trong phòng khách, Tư Thất còn đang suy nghĩ xem nên mở lời với Kim Hồng Mai thế nào thì cô ấy tự mình bước ra từ phòng ngủ. Hai người đàn ông trước mặt nhìn nhau không nói gì, Kim Hồng Mai vịn vào bàn ngồi xuống, sắc mặt còn chút tái nhợt. Sau một khoảng lặng ngắn ngủi, cô ấy khẽ nói: “Tôi không muốn liên lụy đến các anh, tôi sẽ rời khỏi Thượng Hải.”
Nói thì dễ. Tư Thất cần phải chăm lo cho sản nghiệp của Trình tiên sinh nên không thể rời khỏi Thượng Hải. Cô ấy tự mình ra đi, sẽ đi đâu? Hiện tại chiến tranh nổi lên khắp nơi, dù trên người cô ấy có mang theo tiền, nhưng ra khỏi thành phố dù không gặp quân đội thì cũng bị dân tị nạn đói khát cướp sạch.
Tư Thất thấy mình thật đê tiện, mọi chuyện đã đến nước này mà trong lòng cậu ta vẫn còn giữ lại một góc nhỏ lạnh lùng cười nhạo: Uyển Thành Trúc, anh ở đâu? Anh nói sẽ đưa cô ấy đi, nhưng khi cô ấy gặp phải những chuyện này, anh lại bặt vô âm tín.
“À, tôi có một cách, không biết có đi được không.” Người bạn kia đột nhiên lên tiếng: “Ở Đại Đô có một vũ đoàn Châu Âu, tôi có quen với trưởng đoàn của họ. Hôm trước nghe nói vũ đoàn sẽ về Châu Âu, nếu có thể tìm cách đưa Kim tiểu thư vào, có lẽ có thể lợi dụng lúc hỗn loạn mà rời đi.”
“Vũ đoàn Châu Âu?” Tư Thất cảm thấy không ổn: “Cậu nói đi Châu Âu? Nhưng cô ấy…”
“Đi thế nào? Tôi phải làm gì?” Kim Hồng Mai lập tức hỏi.
“Châu Âu quá xa…”
“Còn hơn là liên lụy các anh chết cùng.” Kim Hồng Mai nói.
Tư Thất không nói nữa.
Mọi việc đã định thì lập tức bắt tay vào hành động. Tất cả đều mất trật tự, ngay cả các loại thủ tục và đóng dấu đều dễ hơn ngày thường. Ai cũng muốn chạy khỏi vùng chiến sự, từ máy bay, tàu hỏa đến tàu thủy, ai cũng có cách riêng của mình. Kim Hồng Mai dùng khăn lụa che mặt, làm cho tóc và khuôn mặt đều lấm lem bụi bẩn, đi cùng Tư Thất chụp ảnh dùng cho giấy thông hành và làm thủ tục xuất cảnh.
Họ như trở lại thời thơ ấu, hai đứa trẻ lấm lem bụi bẩn, luôn hành động vào lúc trời tờ mờ sáng, trốn tránh sợ bị người khác phát hiện. Sau một ngày bận rộn trở về nhà, nếu may mắn có thể mua được chút gì đó để ăn, bánh bao hoặc gạo để nấu một chén cháo, hai người chia nhau ăn. Tư Thất luôn nhường cô ấy trước, cô ấy gọi nhưng cậu ta không trả lời, cô ấy đã ngồi sát lại cạnh cậu ta, tự mình ăn một miếng, rồi bẻ một miếng bánh bao nhét vào miệng cậu ta.
“Sao lúc nào hai chúng ta cũng nghèo kiết xác thế này?” Kim Hồng Mai không nhịn được hỏi cậu ta: “Lúc nhỏ nghèo khó, lớn lên vẫn vậy. Lúc mười hai tuổi còn nói muốn ăn Mãn Hán toàn tịch, đến giờ gần hai mươi rồi vẫn ăn bánh bao và cháo loãng.”
“Có bánh bao và cháo loãng là tốt rồi.” Tư Thất nằm trên sàn phòng khách, trả lời cô ấy từ xa: “Hôm nay em có thấy những người đói đến ngất trên đường không? Đều là dân tị nạn từ ngoài khu tô giới chạy vào.”
“Rốt cuộc ông chủ Trình để lại cho anh cái gì?” Kim Hồng Mai không nhịn được hỏi.
“Để lại vài cửa hàng sắp đóng cửa và một mớ hỗn độn.” Cậu ta nói: “Tôi nói mình có rất nhiều chìa khóa không thể ăn cũng không bán được, em tin không?”
Từ trong phòng ngủ vang lên tiếng cười của Kim Hồng Mai, khóe miệng Tư Thất cũng hiện lên một nụ cười.
Người dễ đói nên phải ngủ sớm. Tư Thất nửa đêm mơ màng nghe thấy tiếng xe ô tô đi qua trên đường, cậu ta trở mình, phát hiện bên cạnh có thêm một cái bóng. Cái bóng đó dựa sát vào cậu ta, không dám ở quá gần, quấn chăn của mình co lại thành một đống. Cậu ta chống nửa người lên hỏi có chuyện gì, một lúc lâu sau mới nghe thấy giọng của Kim Hồng Mai.
“Ngày kia tôi phải đi rồi.” Cô ấy nói.
“Ừ.” Cậu ta không biết nói gì cả, chỉ có thể lặp lại: “Ngày kia em phải đi rồi.”
“Tư Thất.” Giọng cô ấy trong đêm khuya có vẻ mờ mịt: “Châu Âu xa lắm không?”
“Có lẽ xa hơn Bắc Bình rất nhiều.” Tư Thất nói: “Sợ sao?”
“Tàm tạm, không sợ lắm.” Cô ấy nằm nghiêng nhìn cậu ta: “Mấy ngày trước có chút sợ, nhưng hôm nay tự dưng không sợ nữa, cảm giác giống như trước khi chúng ta rời khỏi Bắc Bình, cũng giống như đi bán nước soda bên đường ở Tây Sơn. Không biết sẽ gặp cái gì, nhưng có thể sẽ tốt hơn quá khứ.”
Cậu ta khẽ vuốt tóc cô ấy.
“Chỉ tiếc là.” Cô ấy nói: “Lần này anh không thể đi cùng tôi.”
“Trình tiên sinh tin tưởng tôi, tôi không thể phụ sự giao phó mà đi.” Tư Thất nói.
“Không sao, chờ chiến tranh kết thúc tôi sẽ trở về.” Kim Hồng Mai nằm thẳng bên cạnh cậu ta: “Tôi sẽ kể anh nghe những chuyện của mình ở Châu Âu, lúc đó hai chúng ta chắc chắn có thể ăn Mãn Hán toàn tịch.”
Rốt cuộc cô ấy bao nhiêu tuổi nhỉ? Luôn nói nói chuyện như không biết tuổi. Tư Thất chợt nhận ra, bất luận cô ấy bao nhiêu tuổi, mỗi lần trở về cạnh cậu ta, Kim Hồng Mai lại trở thành cô bé nằm bên cạnh cậu ta trong ngôi miếu năm xưa.
Cô bé của cậu ta sắp phải đi xa rồi.
Cậu ta sẽ tiễn cô ấy lần cuối cùng.
Ngày cuối cùng ở Thượng Hải, hai người họ không ra ngoài tránh gây thêm phiền phức. Kim Hồng Mai muốn nói chuyện với cậu ta, nhưng Tư Thất quay lưng không nhìn cô ấy, khoanh tay nói: “Em cách xa tôi một chút, ít nói chuyện với tôi, như vậy ngày mai tiễn em đi, khi trở về tôi cũng không cảm thấy quá cô đơn.”
Cô ấy đành phải nhẹ nhàng “ừ” một tiếng.
Cậu ta vẫn không rõ mình là gì đối với cô ấy, cô ấy dựa dẫm, tin tưởng vào cậu ta, có lẽ cũng yêu, nhưng lại không giống như đối với người yêu. Cậu ta như anh trai, như cha, như người thân, nhưng làm gì có người thân nào giống như họ? Họ nằm trên sàn nhà, mở mắt đến nửa đêm, nghe tiếng xe cuối cùng ngoài đường dần biến mất, Tư Thất đứng dậy nói: “Phải đưa em ra bến tàu rồi.”
Đêm khuya sương mù dày đặc, giờ này đi sẽ bớt chút phiền toái. Cô ấy đi lấy hành lý, một chiếc vali nhỏ, bên trong có vài bộ quần áo và số tiền cậu ta đưa cho, còn có cây trâm hoa sen kia. Hai người nhân lúc trời tối xuất phát, cô ấy đi trước, cậu ta theo sau. Khi gần đến bến tàu, họ đi qua một cánh cửa sắt chưa mở, cô ấy quay lại nhìn cậu ta, cậu ta bước lên nhặt một sợi dây sắt từ mặt đất, bẻ cong và đưa vào ổ khóa “cạch” một tiếng.
Tiếng “cạch” vang lên, thời gian quay ngược, bọn họ một người mười hai, người kia mười ba tuổi, một trước một sau bước đi trong đêm ở thành Bắc Bình, cô ấy ôm một gói đồ đầy những thứ ăn cắp từ đoàn kịch. Cậu ta là cậu bé diễn xiếc bẩn thỉu, cô ấy cũng là cô bé ăn mày bẩn thỉu, họ đã cùng ăn một xiên kẹo hồ lô, cùng đắp chung chăn ngủ trên giường, ngồi chung một chuyến xe lửa.
Thì ra là vậy. Từ Bắc Bình đến Thượng Hải, cậu ta tiễn cô ấy một đoạn, đồng hành một đoạn, bảo vệ một đoạn. Giờ đây, con đường họ cùng đi đã đến điểm dừng, cậu ta đưa cô ấy lên chiếc tàu ra biển xa, cô ấy phải tiếp tục đi cuộc đời đầy sóng gió của mình.
Cậu ta biết mình là ai.
Cậu ta là người đưa đò của cô ấy trên thế gian này.
***
[Hồng Kông, năm 1953.]
Tư Thất ở lại Thượng Hải đến khi thời kỳ cô đảo (*) chấm dứt, trước khi khu tô giới bị chiếm, Trình tiên sinh đã gọi cậu ta đến Hồng Kông. Nhưng Hồng Kông cũng sẽ nhanh chóng không còn an toàn nữa, Trình tiên sinh bắt đầu chuẩn bị ra nước ngoài, hỏi cậu ta có muốn đi cùng không.
(*) 孤岛时期 (thời kỳ cô đảo): Giai đoạn từ năm 1937 đến năm 1941 ở Thượng Hải, khi thành phố bị Nhật Bản chiếm đóng trong Chiến tranh Trung – Nhật. Các khu vực tô giới quốc tế và tô giới Pháp trở thành những “hòn đảo” cô lập giữa thành phố bị chiếm đóng, tiếp tục hoạt động dưới sự quản lý của các cường quốc phương Tây cho đến khi Nhật Bản chiếm toàn bộ Thượng Hải vào tháng 12 năm 1941.
“Tôi không đi, ngài hãy tự mình bảo trọng.” Tư Thất lắc đầu: “Tôi là người Bắc Bình, Hồng Kông đã quá xa quê hương rồi, tôi không muốn đi nữa.”
Cậu ta không muốn đi nữa, cũng sợ đi rồi sẽ không về được, không thể đợi Kim Hồng Mai nữa.
Nhìn lại quá khứ, dường như đời này cậu ta chưa từng thật sự tự quyết định ở lại hay ra đi, số mệnh không cho cậu ta quyền lựa chọn, nó chỉ đẩy cậu ta đi.
Hiện giờ cuối cùng cậu ta có thể tự mình lựa chọn một lần, cậu ta không đi nữa.
Cậu ta lặng lẽ sống giữa lửa đạn, tay nghề học được khi học việc thời niên thiếu đã phát huy công dụng, cậu ta kiếm sống bằng nghề sửa đồng hồ. Ngày qua ngày, cậu ta lấy số tiền dành dụm trong những năm làm việc cho Trình tiên sinh mua một cửa hàng ở khu phố sầm uất, mở một cửa hàng đồng hồ giá rẻ.
Từ khi Kim Hồng Mai rời khỏi Thượng Hải đã 5 năm, 10 năm, 15 năm, cậu ta không nghe tin tức gì về cô ấy nữa. Trong thâm tâm có một âm thanh nói với cậu ta là cô ấy vẫn còn sống, nhưng đó chỉ là cảm giác mơ hồ. Cuộc chiến kéo dài đã khiến vô số người phải trôi dạt khắp nơi, rời xa cố hương, cô ấy chỉ là một trong những người nhỏ bé đó.
Gặp lại Uyển Thành Trúc là việc ngoài dự đoán.
Ban đầu tiệm đồng hồ của cậu ta chỉ bán hàng giá rẻ, sau này khi có một số khách hàng quen tín nhiệm, họ sẽ trả trước để nhờ cậu ta mua những chiếc đồng hồ danh tiếng. Hôm đó, khi cậu ta đang mở cửa tiệm để đón khách như đã hẹn, cậu ta nghe thấy hai giọng nói đàn ông đến gần, chợt nghe được giọng nói quê nhà.
Thật hiếm có, không phải tiếng Quảng Đông mà mang âm điệu khu Đông Thành Bắc Bình, thanh âm lạnh nhạt, vừa lạ lẫm lại quen thuộc. Cậu ta ngẩng đầu lên, thấy Uyển Thành Trúc đứng bên cạnh khách hàng của mình, ánh mắt nhìn hắn nhìn qua cũng mang vẻ ngạc nhiên.
Trình tiên sinh từng nói: “Trải qua vài lần vấp ngã, ăn chút dạy dỗ, tới tuổi này của tôi là vừa vặn.” Quả nhiên là Trình tiên sinh có khả năng nhìn người. Mười lăm năm trôi qua, chiến tranh chấm dứt, trong đôi mắt của Uyển Thành Trúc cũng có chúng sinh, không còn khiến Tư Thất chán ghét như xưa. Hai người đàn ông ngồi ở bàn trà phía trong cửa hàng đồng hồ, cậu ta có thể bình tĩnh nghe Uyển Thành Trúc kể về cuộc đời mình.
Hắn kể mình không trở về Thượng Hải là vì bị gia đình giam giữ, giam đến khi chiến sự ngày 7 tháng 7 nổ ra, cả gia đình mấy chục người chuẩn bị rời khỏi thành phố, anh trai mệt mỏi đến ngã bệnh, hắn trở thành người đứng đầu gia đình, càng không thể ra đi. Sau này khi chiến tranh lan ra khắp cả nước, gia nghiệp nhà họ Uyển suy bại, chống đỡ bốn năm năm, cuối cùng phải chia gia sản để giải quyết.
“Hiểu rồi.” Tư Thất lạnh nhạt nói: “Con cái trong gia tộc lớn như anh có quá nhiều người phải lo, không giống như những đứa trẻ mồ côi chúng tôi, chỉ cần lo cho người bên cạnh là đủ.”
Cậu ta đang thay Kim Hồng Mai tha thứ cho Uyển Thành Trúc sao? Cô ấy cần cậu ta thay mình tha thứ không? Tại sao mọi việc đến cuối cùng không có ai làm sai? Sao cậu ta lại không có ai để oán trách chứ?
Hoặc là đến tuổi này rồi, sau khi đã trải qua bao thăng trầm, oán trách hay tha thứ đều không còn ý nghĩa nữa. Kim Hồng Mai đi rồi, rời khỏi Thượng Hải. Gia tộc nhà họ Uyển suy tàn, hiện giờ Uyển Thành Trúc cũng chỉ là một thương nhân bình thường. Còn Tư Thất, ở góc phố sầm uất mở một tiệm đồng hồ, cậu bé ăn xin què chân ngày nào cũng đã tìm được cách để sống yên bình.
Ngày đó, trước khi đi Uyển Thành Trúc đã đưa cho cậu ta một tấm danh thiếp, trên đó có số điện thoại và địa chỉ của hắn ở Singapore. Hắn nói mình vẫn đang tìm kiếm Kim Hồng Mai, mười lăm năm trôi qua, cô ấy đã trở thành chấp niệm trong lòng hắn, càng muốn quên lại càng không thể. Nếu Tư Thất có tin tức của cô ấy, phiền cậu ta chuyển tấm danh thiếp này cho cô ấy, gặp hay không gặp, đều tùy cô ấy quyết định.
Người chẳng phải cố nhân ấy chào tạm biệt cậu ta, Tư Thất đóng cửa tiệm đồng hồ sớm.
Tư Thất cảm thấy quá mệt mỏi.
Câu chuyện xưa này đã kéo dài hơn hai mươi năm, giống như mang sinh mệnh mình coi như ngọn nến mà đốt.
Quá mệt mỏi.
***
[Hồng Kông, năm 1957.]
Cuối cùng Kim Hồng Mai không trở về sao?
Cô ấy từng trở về.
Bốn năm sau khi Uyển Thành Trúc rời đi, một thương buôn ngọc trai tên Hồ Phong Niên đã làm cầu nối, giúp Trình tiên sinh liên lạc được với Kim Hồng Mai. Trình tiên sinh đã cho cô ấy địa chỉ tiệm đồng hồ của Tư Thất, Kim Hồng Mai đã lên tàu trở về.
Khi cô xuất hiện trước cửa tiệm, mặc chiếc áo khoác dài đến mắt cá chân, quàng một chiếc khăn màu vàng dày dặn, tóc búi cao, cài một cây trâm bạc đính ngọc trai làm nổi bật gương mặt rạng rỡ của cô ấy, cô ấy không già đi nhiều. Tư Thất nghĩ lúc gặp lại họ sẽ có nhiều cảm xúc khó nói, nhưng khi hai người thực sự ngồi đối diện nhau, trong lòng cậu ta chỉ tràn ngập nỗi buồn không thể nói ra.
Đã hai mươi năm kể từ đêm cậu ta tiễn cô ấy rời khỏi Thượng Hải. Họ không còn là cậu bé diễn xiếc nghèo khó và cô bé ăn mày nữa, họ ăn mặc chỉnh tề, cùng nhau đến một nhà hàng gần đó và gọi nhiều món đắt tiền. Tư Thất cúi đầu, đưa từng miếng từng miếng thức ăn vào miệng, còn Kim Hồng Mai ngồi bên cạnh, thỉnh thoảng lại gắp chút thức ăn vào chén cậu ta.
Khóe mắt cậu ta đột nhiên chảy ra một giọt nước mắt.
Cậu ta chưa từng khóc trước mặt Kim Hồng Mai, không đúng, từ khi nhặt về cái mạng trong miếu năm 13 tuổi, cậu ta chưa từng khóc nữa. Nước mắt cứ thế rơi nhiều hơn, Kim Hồng Mai lặng lẽ ngồi bên cạnh, dùng đầu ngón tay lau nước mắt thay cậu ta, giống như cách cậu ta từng lau nước mắt cho cô ấy.
Năm đó cậu ta đã 39 tuổi.
Đã 39 tuổi rồi!
Rốt cuộc ai đã cướp đi tuổi trẻ của họ, rốt cuộc là ai!
Cô ấy không khóc, vẻ ngoài của cô ấy cũng không thay đổi nhiều, nhưng toàn bộ con người đã không còn chút gì gợi nhớ về quá khứ. Sau bữa ăn ở nhà hàng, họ trở về tiệm và kể cho nhau nghe về những năm tháng đã qua. Cô ấy không kể với cậu ta về Châu Âu, mà kể về cầu cảng Sydney, về sa mạc đất đỏ, về thủy triều và ngọc trai ở Ấn Độ Dương. Cô ấy nói mình không kết hôn, có lẽ sẽ không lập gia đình nữa.
“Tư Thất, có lẽ một mình bước về phía trước cũng tốt, không đợi người khác quay lại tìm mình, cũng tốt.” Cô ấy chống tay lên quầy, trên mặt hiện lại xuất hiện thần sắc như khi cô ấy 18 tuổi. “Còn anh? Anh đã bước tiếp chưa?”
Cậu ta? Cậu ta đi đâu? Cậu ta là người đưa đò của cô ấy, đưa cô ấy sang bờ bên kia, quãng đời còn lại cũng chỉ có thể ngồi trên thuyền, đi đi lại lại trên dòng sông mà họ đã cùng song hành. Trên dòng sông đó có ngôi miếu và xe lửa khi họ mười ba tuổi, gác mái và nước soda khi họ mười sáu, những bông hoa sen luôn nở rộ trên sông, rễ cắm sâu vào bùn, không một bông nào lỡ mùa hoa nở.
Trong những ngày ở Hồng Kông, cô ấy ở khách sạn chứ không ở lại nhà cậu ta. Họ đã trưởng thành, không còn ở cái tuổi có thể ngủ chung trên sàn nhà nữa. Nghe kìa, cả đêm cậu ấy ngủ không yên, xương cổ còn kêu cọt kẹt.
Những ngày đó, Tư Thất đóng cửa tiệm, đưa cô ấy đi dạo khắp nơi. Với cái gì cô ấy đều tò mò, cái gì cũng muốn chạm vào, nhìn một cái, ở bên nhau một thời gian đã lập tức như trước đây. Họ mua hai chai soda rồi ngồi trên băng ghế ở cảng, nhìn từ phía sau không khác gì một đôi vợ chồng. Kim Hồng Mai cúi đầu uống hết chai soda, uống đến hơi lạnh, dùng khăn quàng quấn quanh người.
Tư Thất nhìn cô ấy một cái, nghĩ thầm, cô ấy không đến tìm cậu ta nữa.
Dù gặp phải chuyện gì, cũng sẽ không đến tìm cậu ta nữa.
Cậu ta vẫn luôn chờ Kim Hồng Mai hỏi về Uyển Thành Trúc, chờ đến đêm trước khi cô ấy rời khỏi Hồng Kông, cuối cùng mới nghe cô ấy nhắc đến cái tên này trong cửa hàng đồng hồ. Khi đó, cô ấy chọn một chiếc đồng hồ ưng ý cầm trong tay ngắm nghía, Tư Thất ngẩng đầu nhìn thoáng qua một cái, nói: “Thích thì lấy đi.”
“Anh có gặp lại Uyển Thành Trúc không?” Giọng cô ấy vang lên chồng lên giọng cậu ta.
Ánh mắt cô ấy dừng lại trên chiếc đồng hồ, dáng vẻ hỏi han cũng không mấy quan tâm, nhưng ngón tay khẽ run, dây đồng hồ kim loại bị cô ấy chạm vào cũng vang lên. Bên kia, Tư Thất đeo kính, xoay bánh răng, vặn từng con ốc nhỏ, vặn thêm cái nữa, cuối cùng cũng mở miệng nói: “Gặp rồi, hắn cùng vợ đến Hồng Kông du lịch, tiện thể đến tiệm của tôi mua đồng hồ.”
Cô ấy cười một tiếng, đặt lại đồng hồ vào tủ kính.
“Dường như cũng không cảm thấy khổ sở.” Cô ấy nói: “Anh có hỏi tại sao năm đó anh ấy không quay về Thượng Hải không?”
“Có hỏi.” Tư Thất cúi đầu, những con ốc không thể xoáy vào đúng rãnh. Cậu ta thấy ngón tay mình đang run lên: “Hắn nói gia đình đã chọn cho mình một người môn đăng hộ đối… Hắn đã nghe theo.”
“À.” Kim Hồng Mai như bừng tỉnh: “Hóa ra là vậy, không trách được.”
Hai người không nói gì nữa.
Cậu ta hít sâu hai hơi, cuối cùng tay cũng vững lại, vặn khớp những con ốc vít nhỏ sau lưng đồng hồ. Cậu ta lắp lại nắp lưng, xoay chặt nó, rồi đứng dậy từ phía sau quầy. Sau khi đến Thượng Hải, cậu ta vẫn chưa tìm được thợ đóng giày thích hợp, nên đôi giày da không còn độn thêm ba centimet nữa. Cậu ta khập khiễng từng bước đến trước mặt Kim Hồng Mai, lấy chiếc đồng hồ trong tay cô ấy ra rồi đeo chiếc vừa sửa vào cổ tay cô ấy.
“Chiếc này hợp với em hơn.” Cậu ta nói, ánh mắt lại rơi vào sợi dây đỏ trên cổ tay cô ấy, trên đó xâu hai viên ngọc. Một viên khắc lá trúc, viền bằng sợi vàng, viên kia khắc chữ ‘Nghi’, cuối sợi dây đỏ là một nút thắt.
Chiếc đồng hồ kim loại lạnh lẽo đeo trên cổ tay, Kim Hồng Mai nâng tay, tháo vòng tay xuống, tự mình điều chỉnh độ rộng của dây đồng hồ. Tư Thất lặng lẽ nhìn cô ấy, lại thấy cô ấy tháo nút thắt, gỡ viên lá trúc ra, đặt lên bàn.
Thật kỳ lạ, mặt kính quầy hàng nhẵn bóng như vậy, hạt ngọc cũng tròn trịa, vậy mà không lăn lung tung, chỉ nằm yên tại chỗ.
Cho cậu ta cái này làm gì?
“Năm đó rời khỏi Thượng Hải, anh ấy để lại lá trúc và câu ‘Ân ái bất lưỡng nghi’ cho tôi.” Kim Hồng Mai nói: “Anh ấy chỉ lấy đi câu ‘Kết phát vi phu thê’.”
“Tôi nói anh ấy chia lạ quá, nếu mỗi người một câu thơ, thì hoa hồng và lá trúc cũng nên mỗi người một viên. Anh ấy nói, hoa hồng là tôi, lá trúc là anh ấy, để tôi giữ anh ấy lại. Chờ anh ấy từ Bắc Bình trở về sẽ trả lại lá trúc cho anh ấy.”
“Tư Thất, những tiếc nuối năm xưa giữ lại cũng không có ý nghĩa. Tôi phải đi, lần này sẽ không quay lại nữa. Nếu anh gặp lại anh ấy, cứ làm theo lời anh ấy, trả lại lá trúc lại cho anh ấy.”
Tư Thất nắm chặt viên lá trúc trong tay, ngẩng đầu nhìn Kim Hồng Mai.
“Anh ấy kết hôn với người khác cũng tốt, không có gì bất đắc dĩ cũng tốt. Tôi không cần làm hoa hồng đỏ, cũng không cần làm Kim Hồng Mai nữa.” Cô ấy nói với vẻ nhẹ nhàng: “Lần này trở về, tôi sẽ kiên định mà sống, làm Kim Tương Tuyệt.”
***
“Tư Thất, cho nên ngài đã lừa bà sao?”
“Đúng, tôi lừa bà ấy.”
Tư Thất đã lừa Kim Hồng Mai, xuất phát từ lòng riêng đối với bà ấy, là sự trả thù của ông ấy với những gì mình đã trải qua trong nhiều năm. Ông ấy không ngờ lời nói dối của mình giúp bà giải thoát, lại khiến bản thân rơi vào dằn vặt kéo dài.
Khi đưa Kim Hồng Mai, người đã quay về làm Kim Tương Tuyệt rời khỏi Hồng Kông, ông ấy hỏi bà có tính toán gì tiếp theo không. Bà nhắc tới mình đã nhìn trúng một cửa hàng ở phố người Hoa, có lẽ sẽ dùng cái tên Tương Tuyệt này mở một cửa hàng sách tiếng Hoa. Nói xong bà nhẹ nhàng xoay người rời khỏi, để lại ông ấy đứng ở bến tàu, giống như lần đầu tiên ông ấy tiễn bà rời đi nhiều năm về trước.
Ông ấy biết, thế giới rộng lớn, Kim Tương Tuyệt và Uyển Thành Trúc sẽ không gặp lại nữa. Mà lần này đi, cũng là lần cuối cùng ông ấy và Kim Tương Tuyệt gặp nhau.
Tư Thất giấu viên ngọc của bà và danh thiếp của Uyển Thành Trúc đi, mỗi đêm khuya đều tự chất vấn mình, sự che giấu này rốt cuộc có ý nghĩa gì. Nhưng mỗi lần tỉnh dậy đều tự trấn an mình, Kim Tương Tuyệt vẫn còn sống, Uyển Thành Trúc cũng còn sống, sau này sẽ có cơ hội để nói thật. Ông ấy đã bị vây khốn trong dòng sông không có bà suốt nhiều năm, tại sao câu chuyện xưa này đến cuối cùng lại chỉ còn ông ấy cầu mà không được?
Ông ấy sống trong ảo tưởng “vẫn kịp” cho đến khi già nua, cửa hàng đồng hồ đóng cửa, mà bản thân cũng đến một ngôi chùa trên núi Phượng Hoàng làm tình nguyện viên.
Ông ấy không có nhà, không có con cái, nghe nói trong chùa có một cậu bé hòa thượng cũng được nhặt về từ một cây cầu dưới chân núi, nên đã đối xử với anh ấy như con cái, cũng sẵn sàng kể cho anh ấy nghe về quá khứ. Một ngày nọ, đứa trẻ đó đến tìm ông ấy, đưa cho ông ấy xem một bức ảnh trên điện thoại, trên một con phố cổ kính có treo biển hiệu “Hiệu sách tiếng Hoa Tương Tuyệt”, nét chữ rồng bay phượng múa.
“Ông Tư, cháu đã tra cứu trên internet giúp ngài.” Hòa thượng trẻ kia nói: “Hiện giờ có thể mua sách nhập khẩu vượt biển ở hiệu sách này, có lẽ cơ thể bà vẫn khỏe mạnh.”
Ông ấy nhìn chằm chằm vào bức ảnh, bỗng nhiên nhớ lại năm đó họ đã xem《Mẫu Đơn Đình》, 《Bạch Xà Truyện》, hẹn nhau sẽ cùng xem《Hồng Tông Liệt Mã》.
Nhưng họ không còn đi xem hát nữa.
Vì thế ông ấy hỏi hòa thượng trẻ, trong tiệm sách của bà có bán《Hồng Tông Liệt Mã》 không?
Ông ấy lại sống trong những ngày ở chỗ tối nhìn bà như ở Bách Nhạc Môn, ông ấy nhờ bạn nhỏ truyền đạt những cập nhật của hiệu sách cho mình, chụp lại các thông báo mới, mua《Bạch Xà Truyện》, lại mua《Mẫu Đơn Đình》. Những gói hàng xuyên đại dương được gửi về, ông ấy mở ra nhưng không lật xem, chỉ để xác nhận bà sống tốt, thực sự sống lại thành Kim Tương Tuyệt.
Cho đến một ngày, trong những cuốn sách ông ấy mua về có kẹp một thông báo ngừng kinh doanh và một mảnh giấy nhỏ ——
[Phật hứa nguyện chúng sinh, tâm kiên đá cũng mòn. Hôm nay tuy biệt ly, ngày mai lại gặp nhau.]
Có thể do bệnh tật hoặc không có sức lực, nhưng tóm lại, bà không còn kinh doanh hiệu sách nữa. Ông ấy nhờ bạn nhỏ đến xem, hàng hóa trong tiệm đã hoàn toàn trống rỗng, ảnh chân dung đã vĩnh viễn phủ bụi.
Lúc này Tư Thất mới nhận ra, sự lừa dối kéo dài nửa thế kỷ của mình phải nhanh chóng được bù đắp lại.
Nhưng Tư tiên sinh, còn đâu là “nhanh chóng” nữa chứ? Đóa hoa sen kia đã sớm nở rộ và héo tàn, mà ông ấy, lại một lần nữa đến muộn.