Dân chúng không biết tin công chúa An Y Na đã chết, cho dù có biết thì đối với bọn họ mà nói, đó cũng chỉ là một thành viên trong hoàng thất đã qua đời mà thôi.
Trên thực tế, tin tức này có thể làm xáo trộn thế cục phương Bắc.
Mặt mũi Khương Bồng Cơ sa sầm, cô hỏi về tình hình chiêu mộ binh lính và tình hình huấn luyện tân binh.
Nếu phải đánh trận thì không thể không có người được.
Bởi nạn hạn hán, rất nhiều thành viên cấp thấp trong Thanh Y Quân và Hồng Liền Giáo đều cảm thấy cuộc sống quá gian khổ, đồng loạt rời khỏi tổ chức trở thành nạn dân. Đối với bọn họ mà nói, quận Phụng Ấp như thể một ốc đảo giữa sa mạc, nên cả đám thi nhau chạy đến đây.
Khương Bồng Cơ ra lệnh sàng lọc nghiêm khắc kỹ càng, tuyển chọn những người có tố chất khá tốt vào trại tân binh.
Nhờ có chính sách hộ tịch của nữ binh, cho nên công việc chiêu mộ khá thuận lợi, rất nhiều cô gái bị cuộc sống ép vào đường cùng đều muốn tòng quân, có điều Khương Bồng Cơ nâng cao điều kiện tuyển chọn của doanh trại nữ binh lên, chỉ chọn những người có sức khỏe, nhanh nhạy, ý chí kiên cường, để đảm bảo sức chiến đấu của cả đội.
Thời đại này, muốn gia tăng dân số chỉ có thể dựa vào việc sinh sản của phụ nữ, nhưng doanh trại nữ quy định sau hai mươi tư tuổi xuất ngũ mới được kết hôn sinh con, nếu như có quá nhiều phụ nữ tòng quân, thì dân số trong địa bàn của cô cũng bị ảnh hưởng, đây chính là điều Khương Bồng Cơ không muốn nhìn thấy nhất.
Hơn nữa chiến tranh không phải cứ ai có nhiều quân hơn là người đó thắng, tố chất tổng thể cũng rất quan trọng.
Cô thà để quân số của nữ binh ít hơn nam binh một nửa, nhưng tiêu chuẩn về sức chiến đấu tuyệt đối không được sụt giảm.
Ít mà chất lượng còn hơn là nhiều!
Khương Bồng Cơ hỏi với vẻ mặt nghiêm nghị: “Tình hình mỏ sắt thế nào rồi?”
Phong Cẩn nói: “Đám tù binh Thanh Y Quân bắt được trước đó đã đưa đến mỏ sắt rồi. Trữ lượng sắt trong mỏ cũng được coi là phong phú, có điều về mặt luyện kim thì… e rằng phải tìm kiếm thợ tay nghề cao. Chuyện này cũng không khó, Cẩn có thể nghĩ cách giải quyết.”
Có quặng sắt trong lãnh địa, điều này có nghĩa bọn họ không cần bỏ một đống tiền ra mua, tiết kiệm được không ít tiền.
Năm ngoái phải mua mấy nghìn bộ trang bị cơ bản cho bộ binh đã khiến Khương Bồng Cơ xót hết cả ruột, tiền đội nón ra đi cứ vèo vèo.
Cho dù số tiền đó là do đám phu nhân quý tộc Bắc Cương cống hiến nhưng tiền đã vào túi cô rồi thì chính là tiền của cô!
Vẻ mặt Phong Cẩn có chút khó xử: “Có điều… chỉ thế thôi thì e là không đủ để đối phó với kỵ binh của Bắc Cương.”
Khi đối phó với Bắc Cương, bọn họ nhất định phải đối mặt với kỵ binh của chúng.
Căn cứ vào hiểu biết trước kia, bình thường quân đội Bắc Cương đều cấu thành từ bộ binh và kỵ binh, tỷ lệ giữa bộ binh và kỵ binh khoảng 1:2.
Mười mấy năm trước, khi Bắc Cương xua quân tập kích quận Thượng Ngu, Sùng Châu, đã huy động một trăm nghìn binh lực, trong đó có sáu mươi, bảy mươi nghìn kỵ binh!
Một khi đã đánh, bọn chúng khí thế như chẻ tre, liền một lúc hạ sáu thành.
Nếu như không có Trấn Bắc Hầu Phủ phản ứng kịp thời, để muộn thêm chục ngày nữa chắc cả Sùng Châu đã rơi vào tay bọn chúng.
Bắc Cương là dân tộc du mục, thường xuyên tiếp xúc với ngựa, nói một câu khó nghe thì trẻ con nhà người ta bảy tám tuổi đã cưỡi ngựa phi như bay trên thảo nguyên Bắc Cương rồi, còn quý tộc Đông Khánh lên ngựa còn phải dùng bàn đạp, ngay đến lưng ngựa còn không leo lên nổi.
Lúc bàn đạp cưỡi ngựa mới xuất hiện chưa phổ biến, chỉ có một số ít quý tộc dùng bàn đạp lên ngựa thô sơ. Cưỡi ngựa không dễ, có điều rất nhiều người cưỡi ngựa giỏi đều không thích sử dụng bàn đạp, như Lý Uân bình thường cưỡi ngựa cũng không dùng bàn đạp, thế mới bị đám khán giả mang ra trêu đùa, khen Lý Uân eo khỏe, sau này vợ anh sẽ rất “hạnh phúc” (trên giường).
Bàn đạp có thể cải tiến để hỗ trợ kỵ binh lên ngựa tác chiến, cho dù là người không quen cưỡi ngựa cũng có thể biết cưỡi ngựa một cách nhanh chóng.
Nhưng trên phương diện kỵ binh, cho dù hiện tại Khương Bồng Cơ bắt đầu chuẩn bị thì về mặt chất lượng cũng rất khó vượt qua được Bắc Cương, càng đừng nói đến số lượng.
Trừ phi…
Cô vừa huấn luyện kỵ binh, vừa huấn luyện một binh chủng đặc biệt có thể khắc chế được kỵ binh.
Mắt Khương Bồng Cơ sáng ngời, đầu óc bắt đầu hoạt động. Phong Cẩn thấy cô chìm đắm trong suy nghĩ, mười đầu ngón tay bất giác đan vào nhau liền biết chủ công nhà mình đang nghĩ cách, vì thế không lên tiếng làm phiền cô nữa, chỉ ở bên cạnh đợi cô suy nghĩ xong.
“Không phải là không có cách đối phó với kỵ binh…”
Đối với Khương Bồng Cơ mà nói, không có binh chủng nào là vô địch.
Cho dù là đội quân biến đổi gen mà Liên Bang xây dựng cũng không phải là vô địch, bọn họ vẫn có thể gặp phải “thiên địch”.
Cũng như thế, kỵ binh của Bắc Cương chỉ là kỵ binh hạng nhẹ đơn sơ thì lại càng không thể vô địch được.
Phong Cẩn hỏi: “Không biết chủ công có cách gì?”
Khương Bồng Cơ nói: “Ta muốn huấn luyện một đội quân chuyên môn chém ngựa. Các trại nuôi ngựa của Đông Khánh đều tập trung ở Thương Châu, Thương Châu lại là địa bàn của Mạnh thị, bọn họ và chúng ta không phải là người cùng đường. Muốn mua đủ chiến mã bằng con đường này chỉ e phải dốc hết toàn bộ gia sản. Nếu Bắc Cương khai chiến, bọn chúng cũng sẽ quan sát chặt chẽ hướng mua bán ngựa. Hiện giờ chúng ta nước đến chân mới nhảy, mở rộng quy mô của kỵ binh thì không thực tế.”
Trương Bình ở bên cạnh nói: “Chủ công muốn phát huy sở trường tránh sở đoản, không giằng co trực tiếp với kỵ binh mà chuyển qua nghiên cứu cách khắc chế kỵ binh?”
Nếu nói đến chuyện dùng ngựa trong chiến tranh thì cả năm nước của Cửu Châu, cho dù là Trung Chiếu hùng mạnh nhất cũng không dám nói mình có thể thắng được Bắc Cương.
Thay vì đối diện trực tiếp với kỵ binh, không bằng tìm đường tắt, nghiên cứu một đội quân chuyên khắc chế kỵ binh.
Đây đúng là một ý tưởng sáng tạo.
Khương Bồng Cơ gật đầu, nói: “Chiến mã và kỵ binh cũng là một cái mạng, một khi không có chiến mã, kỵ binh chẳng khác gì con ốc sên bị lột vỏ, yếu nhớt. Bây giờ chúng ta có quặng sắt, có thể chế tạo trường đao, khiên dày, nếu như để các binh chủng khác nhau cùng phối hợp, ví dụ có quân lính chuyên môn dùng khiên dày để chắn đợt công kích đầu tiên của kỵ binh, một đội quân khác sử dụng trường đao hoặc trường thương giết chết chiến mã…”
Đây chỉ là một giả thiết, muốn ứng dụng thực tiễn còn phải thí nghiệm trước.
Ví dụ như rốt cuộc kỵ binh tấn công mạnh đến đâu, khiên phải dày thế nào thì mới cản được địch, bảo vệ đội hình phía sau không bị hỗn loạn.
Khương Bồng Cơ nói: “Trước kia Hoài Du đã thấy khả năng xuyên thủng của nỏ máy chưa?”
Nỏ máy?
Dùng nỏ máy để đối phó với kỵ binh?
Phong Cẩn gật đầu, hoài nghi nói: “Nhưng nỏ máy rất nặng, không dễ di chuyển, dùng để đối phó với kỵ binh e rằng sẽ gặp cản trở.”
Trương Bình lắc đầu, nói với Phong Cẩn: “Hoài Du nghĩ thế sai rồi, ý của chủ công là nếu như nỏ máy có thể di chuyển thì sẽ tạo thành thương vong như thế nào cho kỵ binh. Nỏ lớn có thể gắn trên chiến xa, di chuyển sẽ tiện lợi hơn. Đương nhiên cũng có thể lắp bánh xe vào nỏ máy, có điều sức giật của nỏ máy rất lớn, một khi đã bắn tên sẽ khiến cả xe giật theo…”
Tư duy của dân chuyên kỹ thuật bao giờ cũng nhanh nhạy hơn người bình thường, hướng suy nghĩ của Trương Bình đương nhiên khác với hướng của Phong Cẩn.
“Cách đó cũng có thể thử.”
Phong Cẩn nhớ đến tầm bắn của và lực bắn của nỏ máy, trong lòng cũng có thêm phần tự tin.
Nhưng Khương Bồng Cơ đã dội cho anh một chậu nước lạnh, cô nói: “Lắp thêm bánh xe vào nỏ máy hay là lắp nỏ lớn trên chiến xa quả thực sẽ tăng tính linh động của nỏ máy nhưng so với kỵ binh vẫn là quá chậm. Muốn dùng cách này để đối phó với kỵ binh có mà nằm mơ, nhiều lắm chỉ dùng khi tập kích, gây uy hiếp trong đợt tấn công đầu tiên. Đến khi kẻ địch nhận ra rồi thì chiêu này không còn tác dụng nữa.”
Khương Bồng Cơ lại bổ sung tiếp: “Tuy tầm bắn vào lực sát thương của nỏ cải tiến không so được với nỏ máy, nhưng tính linh động lại hơn hẳn. Nếu thành lập một đội quân chuyên khắc chế kỵ binh có thể để binh sĩ dùng nỏ cải tiến, đội quân này có thể gọi là bộ binh cung nỏ.”
Phong Cẩn có thể hiểu được, đội quân này tương đương với bộ khúc trước kia, chẳng qua tăng số lượng lên gấp vài lần mà thôi.
Những lời Khương Bồng Cơ nói đã mở ra cho anh một lối suy nghĩ mới. >