Đến tối, đã gần mười giờ nhưng Cưu Cưu vẫn không chịu ngủ, con bé nhất định phải đợi Tiểu Dã về. Tôi bế con đi quanh phòng sinh hoạt vài lần, vỗ nhẹ vào lưng con bé, nửa tiếng sau con bé đã tựa vào vai tôi ngủ thiếp đi, trên tay vẫn theo thói quen mà nắm con thỏ bông.
Tôi bế con bé vào phòng ngủ, đắp chăn, nhìn con bé một lúc rồi mới đi ra.
Tôi thấy quản gia vội vàng đi lên lầu, nói với tôi rằng thiếu gia về nhà trong tình trạng say rượu, đã ở nhà kính được 20 phút rồi.
Lâu lắm rồi tôi chưa nhìn thấy cậu ấy uống say, nhìn thấy dáng vẻ sợ sệt lo lắng của quản gia, trong lòng tôi có chút buồn cười. Nhưng tôi cũng phải xem xét đến tâm trạng của người già trong nhà, càng lớn tuổi thì người ta càng nhọc lòng bởi những điều nhỏ nhặt. Phó Dư Dã say, trong mắt ông chuyện này cũng nghiêm trọng như việc Cưu Cưu bị ngã trong vườn. Nhưng nào có đứa nhỏ nào lúc tập đi mà không bị té, nào có người trưởng thành nào chưa từng uống say. Chỉ là Tiểu Dã luôn bình tĩnh điềm đạm, cũng không nghiện rượu, nên thỉnh thoảng chuyện này xảy ra lại trở thành một sự kiện kinh thiên động địa.
Tôi nói, ông đừng lo, ai dám rót rượu cho em ấy, để tôi đi xem.
Nghe tôi nói xong, quản gia vẫn cau mày nói, cậu mau đi nhanh đi, mấy chậu hoa vừa mới chuyển đến hai ngày trước e là không chịu nổi mấy trận đập phá.
Tôi đi một mạch đến nhà kính, trong vườn có thắp đèn nhưng trong nhà kính tối đen như mực, dưới ánh trăng, nhà kính phản chiếu ánh sáng yếu ớt, hoa cỏ cây cối bên trong không nhìn rõ sắc màu, như thể chúng là những sinh vật đen kịt đang đung đưa.
Tôi đứng trước cửa nhà kính một lúc, sau khi quen với bóng tối bên trong, tôi mới thấy có một người đang ngồi sau chậu cây.
Quản gia đi theo sau tôi, mang theo một chiếc đèn nhỏ tinh xảo.
Tôi nhận lấy và bước vào.
Quản gia cùng người hầu không dám tự ý gọi cậu ấy, đều tránh đi.
Trong nhà kính vô cùng yên tĩnh, không phải là sự im lặng đến trống rỗng, mà là một sự im lặng đến cực điểm, ngay cả tiếng bước chân cũng trở thành thứ phá vỡ sự yên tĩnh nơi đây.
Tôi nghe thấy tiếng một bông hoa rơi xuống đất, tiếng những cánh hoa tươi nặng nề rơi xuống nền đất.
Ánh sáng của ngọn đèn nhỏ rất yếu ớt, chỉ có thể soi sáng một khoảng bằng lòng bàn tay.
Trong bóng tối lờ mờ tôi nhìn thấy Tiểu Dã ngồi bên cạnh chậu Rose Chinensis
Chiếc áo sơ mi trắng của cậu cùng màu với bộ lông của Hal, nổi bật trên nền tối.
Tôi lặng lẽ bước lại gần thì thấy cậu ấy đang ngồi trên chiếc bàn kính, như một cậu thiếu niên nhặt lá trúc bên đường thổi sáo. Chỉ là mưa xuân vừa tạnh, người đi đường vội vã, chẳng có ai chú ý tới cậu.
Mùi rượu trên người cậu ấy không nồng nên tôi cũng cảm thấy yên tâm.
Cậu ấy đã không còn là cậu thanh niên cô độc kia nữa, cậu ấy biết chừng mực, cho dù có buông thả cũng sẽ không thể hiện ở trước mặt người ngoài.
Tôi chợt nhớ tới hình ảnh cậu ấy từng ngồi trước cửa ngôi nhà chúng tôi đã sống cùng nhau trong ký ức mình, kiêu ngạo nhưng cô độc, rồi lại mang theo chút xa cách.
Tôi đặt đèn xuống đất thì nghe thấy cậu ấy nói, Hal, nhìn qua đây.
Cậu ấy giơ tay lên, chỉ về bên trái.
Nhưng Hal đang đối diện vẫn không nhúc nhích mà nhìn cậu, miệng vẫn cười.
Những ngón tay cậu ấy lơ lửng trong không trung một lúc rồi buông xuống, giọng nói nhẹ nhàng, con chó ngốc, dạy nhiều vậy rồi mà cũng không học được.
Trái tim tôi đột nhiên bị một thứ gì đó bất ngờ cắm sâu vào, có hơi đau.
Cậu ấy như đột nhiên phát ra tôi, nghiêng mặt, mắt sáng như ánh trăng trên trời, nói:
Thầy ơi, em say rồi
Tôi không thể biết liệu cậu ấy có thực sự say hay không.
Đưa tay sờ lên mặt cậu, đầu ngón tay nóng rực.
Nhìn vào đôi mắt ẩm ướt và chuyển động có hơi hơi chậm của cậu ấy, tôi giật mình, e là say thật rồi.
Cậu ấy nắm lấy tay tôi, áp vào mặt mình.
Tôi nói, có khó chịu không?
Cậu ấy nắm tay tôi, hỏi tôi, tại sao cậu ấy lại không thấy tôi nói gì?
Cậu ấy giận dỗi nhìn tôi, rồi lẩm bẩm đứng dậy, định đi sờ vào Hal.
Tôi nhanh chóng lướt qua, đứng trước mặt cậu ấy, ôm lấy chặn đương cậu.
Tôi ngửi thấy một mùi rượu nồng nặc trên cổ áo cậu.
Sợ là đã uống rất nhiều, cũng không biết là đã uống với ai, nhất định là những người bạn cực kỳ thân, có lẽ Lâm Lễ cũng ở đó.
Tôi ôm đường eo rắn chắc của cậu ấy, hỏi, em nhìn xem anh là ai?
Cậu ấy nghe xong, cau mày, nói: Là thầy.
Tôi hỏi, đây là mấy? Tôi giơ ba ngón tay.
Cậu ấy cũng trả lời được.
Tôi nói: Vậy em nhìn qua kia đi.
Tôi bảo cậu ấy nhìn qua Hal.
Cậu ấy đứng im bất động, quan sát một hồi, vẻ mặt dần dần trở nên nghiêm túc, sau đó lại bình tĩnh trở lại. Một khuôn mặt chỉ xuất hiện khi đang trong các mối quan hệ làm ăn.
Cậu ấy đỡ trán nói xin lỗi, em uống nhiều quá.
Cậu ấy nhìn tôi, ánh mắt bình tĩnh đan xen thêm sự lưu luyến.
Tôi nói: Em khó chịu sao?
Mắt cậu ấy rời khỏi Hal, nhìn qua những bông hoa bên cạnh.
"Dạ không." Cậu ấy thở dài nói: "Em chỉ muốn ngồi ở đây một chút cho tỉnh táo, không ngờ quản gia lại nói với anh."
"Ông ấy sợ em sẽ va vào hai chậu hoa kia."
Tôi nói: "Anh không sợ em uống say, anh chỉ sợ em khó chịu chuyện gì lại không nói cho anh biết."
Tôi nhìn cậu ấy, trong cổ họng như nghẹn một trái chanh, sự chua sót tràn ngập nơi cuống họng.
Cậu ấy nhớ Hal, không chỉ vì Hal đã ở bên cậu bao nhiêu năm qua, mà còn vì chú chó này là người bạn đồng hành duy nhất mà mẹ cậu ấy để lại cho cậu.
Những người nhìn có vẻ lạnh lùng lại che giấu những cảm xúc thật sâu nặng.
Tựa như tôi đã nói, con người ta bị chia cách bởi người ra đi trước người ra đi sau. Nếu tôi đi trước, tôi cũng không lo lắng cậu ấy sẽ không chăm sóc tốt cho Cưu Cưu và Tiểu Sư, mà người tôi lo lắng nhất lại không phải là hai đứa nhỏ, mà là người trước mặt tôi, người tôi yêu.
Cậu ấy trẻ tuổi anh tuấn, mạnh mẽ và tự lập.
Nhưng vẫn sẽ có một đêm, mượn danh cơn say mà ngồi trong nhà kính tưởng nhớ về những chuyện đã qua, nỗi nhớ là sự đau đớn mà không ai có thể tránh khỏi, đối với những người điềm tĩnh lại càng hà khắc.
Cậu ấy khẽ lắc đầu, nói: Anh biết em là người như thế nào mà.
Cậu ấy áp mũi vào mũi tôi, tuyên bố nhẹ nhàng nhưng nặng nề: Anh cũng biết em đang nghĩ gì mà.
Tôi nhìn vào đôi đồng tử sâu thẳm của cậu trong bóng tối, nhưng lại không thể nhìn rõ biểu cảm của cậu.
"Cho nên, anh không được rời bỏ em, cũng không được, bởi vì cảm thấy cuộc sống này mệt mỏi mà bỏ em đi trước."
Tôi muốn nặn ra một nụ cười, mắng cậu ấy nói năng lung tung.
Nhưng tôi lại cảm thấy đằng sau những lời nói này là một sự bất an đến tột độ.
"Em có thể hiểu cho mẹ, nhưng mà, anh thì không được."
Trong đôi mắt cậu ấy như cháy lên một thứ cảm xúc điên cuồng nào đó.
"Yêu em nhiều thêm một chút, được không?"
Rồi lại mang theo sự mong đợi.
"Nhìn em lâu hơn, mười năm, hai mươi năm cũng không đủ, mà là cả một đời, cho đến ngày hơi thở em không còn nữa. Nhưng trước thời khắc đó, xin hãy để em luôn nhìn thấy anh."
Tôi không chịu nổi giọng nói nức nở của cậu ấy, liền đáp:
"Được, anh sẽ luôn dõi theo em, anh sẽ không rời xa em, anh sẽ luôn ở bên em."
"Kể cả có bị cái chết chia lìa cũng không được."
"Được."
Cậu ấy nhận được sự đảm bảo của tôi, cuối cùng cũng thở phào nhẹ nhõm mà ôm tôi vào lòng, như con thuyền ra biển đã quay trở lại bến cảng, như con diều bay cao cũng đã trở về trong lòng bàn tay.
Tôi muốn nói với cậu ấy rằng cậu ấy đã có một gia đình, có người yêu cậu. Cậu đã không còn cô đơn nữa, không cần phải lén lút đến lò sưởi nhặt lại những bức ảnh đã bị cháy xén, không cần phải lo lắng đối mặt với căn nhà trống không không một bóng người, không cần phải một mình gồng gánh những ký ức đau thương.
Những gì cuộc đời này nợ cậu ấy, tôi sẽ bù đắp gấp đôi.