“Chuyện xảy ra sau đó không ai biết,” thợ săn kia cười khổ một tiếng, “Bởi vì từ đó về sau Phật xá đã biến mất, đến đám tăng ni bị trục xuất lúc trước cũng không tìm được nó. Bọn họ tìm khắp khu rừng nhưng không hề thấy bóng dáng Phật xá. Cả một tòa đại điện như thế cứ vậy biến mất như một làn khói nhẹ, đến hòn đá cũng không còn. Người đời sau truyền tai nhau rằng Ô Nạp đã bị đao kia chém chết trong Phật xá, mà Phật xá ấy là một thể với Ô Nạp, một khi ông ấy mất thì nó cũng biến mất theo.”
“Vậy thứ chúng ta nhìn thấy hôm nay là cái gì? Chính tay ta đã sờ lên thềm đá, cổng vòm và thấy đều là thật, tuyệt đối không phải hư ảo.” Vốn Triệu Văn An không tin quỷ thần, hơn nữa truyền thuyết chỉ là truyền thuyết, đời đời truyền lại, là thật hay giả có ai nói được rõ ràng đâu?
Nhưng đám thợ săn lại không có ý kiến gì với lời ông ta nói, bọn họ kiên trì cho rằng trận mưa rền gió dữ hôm nay đưa bọn họ tới một thế giới khác. Mà sở dĩ bọn họ có thể chạy thoát được là nhờ Phật Tổ phù hộ. Cho nên lúc Triệu Văn An kiến nghị bọn họ ngày mai đi tìm tòa Phật xá đã biến mất hơn 1000 năm kia thì cả đám kiên quyết cự tuyệt. Hơn nữa bọn họ còn nói với ông ấy vĩnh viễn không được nói ra chuyện hôm đó với người khác nếu không ông ta sẽ mang tới tai họa cho mình và cả bọn họ.
Triệu Văn An cực kỳ thất vọng nhưng không dám một mình đi vào trong khu rừng kia. Bởi vì dù ông ấy không tin quỷ thần nhưng lại kính sợ phong tục của dân địa phương. Huống chi ông ta cũng cảm thấy chuyện xảy ra hôm đó quả thực là khó mà tưởng tượng. Rốt cuộc ông ta cũng đã tới cánh rừng kia nhiều lần nhưng chưa từng lạc đường, càng đừng nói tới đám thợ săn ngày nào cũng vào rừng và đã sớm thông tỏ từng ngóc ngách.
Không lâu sau khi việc này xảy ra thì sứ đoàn của Triệu Văn An rời khỏi Chân Lạp. Vì thế đoạn kỳ ngộ này ngưng kết thành một tờ trong cuốn du ký của ông ta.
“Khi còn nhỏ ta lật xem du ký của cha và thấy toàn chữ là chữ nên cực kỳ nhàm chán. Nhưng ta lại có hứng thú với hình vẽ ba ngọn tháp nhọn này. Bởi vì cha viết một hàng chữ ở bên cạnh: Giống như trong phút chốc từ đỉnh văn minh rơi vào hoang dã.” Triệu Tử Mại quay đầu nhìn về phía Tang, trong ánh mắt kích động lộ ra ôn nhu, “Không ai biết trong lúc ngươi và Ô Nạp ở chung một chỗ đã xảy ra việc gì có điều tuy bản thể của ngươi là đao linh nhưng tên lại là Tang. Phật xá kia cũng là Tang, chỉ nguyên điểm này đã khiến ta cảm thấy những lời đồn ấy không đáng tin.”
Tang không để ý đến hắn, bởi vì trong đầu nó hiện tại hiện lên một hình ảnh. Đó là hình ảnh vẫn luôn giấu trong đáy lòng nhưng nó không sao ghép lại cho hoàn chỉnh được.
Một gốc đa cổ thụ che trời, tán cây giống như một tán ô khổng lồ. Chỉ một cây đã thành rừng, che lấp một khoảng thật lớn. Nó che trời lấp đất, như đóa mây mù phiếm xanh từ trên trời rơi xuống, chặn đứng ánh nắng ở bên ngoài. Một bên thân cây là một mảnh hồ sen, trong đó sen đỏ lớp lớp khiến mặt nước đỏ bừng. Nhưng cảnh đỏ xanh đan xen ấy không hề tục khí chút nào, ngược lại nó còn dậy lên một cảm giác xung đột kỳ dị: Thần bí, xa lạ, rồi lại thúc giục người ta đi tìm kiếm bí mật giấu sau phong cảnh tươi đẹp này.
Rễ cây thô to buông xuống từ không trung cắm vào mặt đất, có những sợi còn quấn vào nhau thành một tấm mành. (Truyện này của trang Rừng Hổ Phách) Xuyên qua mành rễ này Tang nhìn tới phía sau lại thấy mấy bậc thang thô ráp và một cái cổng vòm rộng rãi khí thế. Nhưng tháp quan trên đỉnh cổng tò vò đã tàn khuyết vỡ nát, chỉ có thể mơ hồ nhìn thấy đồ án hoa sen trên đó. Có vài bông hoa sen còn có hình điêu khắc phía sau nhưng chúng quá mức cổ xưa nên sớm bị năm tháng phủ lên bóng dáng vốn có.
Nó biết đây là nơi nào, bởi vì xuyên qua cành lá phía trên nó thấy ba đỉnh tháp nhọn kia như đang lắc lư trong mây trời. Cũng chính ở nơi này tên hòa thượng trẻ tuổi kia đã cởi bỏ áo cà sa lộ ra phía sau lưng máu thịt nát bét của mình.
Nhưng hiện tại trước cổng tò vò là một người khác, cũng là hòa thượng nhưng lớn tuổi hơn tên kia nhiều. Nếu không biết thân phận của ông ta thì Tang còn đoán ông ta là thần tiên.
Ô Nạp đi về phía nó, tay rũ xuống nhẹ nhàng đặt trên người nó. Đúng vậy, ông lão hơi béo đang cười tủm tỉm với nó chính là đại sư Ô Nạp kia. Bởi vì tâm linh tràn đầy máu huyết của nó vừa tiếp xúc với bàn tay mềm mại của ông ấy thì bỗng bình tĩnh hẳn. Linh hồn nó an tĩnh giống như đôi mắt cũng đang nhìn nó mang theo ôn nhu.
“Từ đây ngươi sẽ gọi là Tang được không?” Thân đao run lên kịch liệt, lưỡi đao sắc bén chọc thủng lòng bàn tay của Ô Nạp khắc lên một hoa văn kỳ quái, “Ngươi vốn bị người khác sử dụng, nay ta thế ngươi trả lại nghiệt nợ trên người, về sau ngươi giúp ta nhé.”
Vết máu biến thành từng đóa sương đỏ bay lên khỏi người nó. Tang cảm thấy cả người mình nhẹ tênh, nhẹ tới độ nó có thể bay lên.
Thoải mái, mấy ngàn năm nay nó chưa từng thoải mái như thế. Được đôi tay kia vuốt ve nên nó buông xuống quá khứ, oán khí quanh năm quấn quanh người nó hình như cũng tan đi. Thứ ở lại chỉ là thân đao lạnh băng cứng rắn, bất kỳ thứ gì cũng đừng hòng xâm nhập vào nửa tấc.
Nhưng sau đó hình ảnh thay đổi, mọi thứ trước mặt bỗng chuyển qua một cảnh khác. Nó ngửi được mùi hương trầm, vừa ngẩng đầu lại phát hiện nó đang đặt mình trong điện, đỉnh đầu có khói trắng phiêu diêu từng tầng bay lên ngưng tụ lại cực kỳ giống bộ dạng vũ trụ khi còn hỗn độn.
Tang biết đây là một tòa Phật xá nhưng nó không ngờ nơi này lại cao thế. Ước chừng có bảy tầng, mỗi tầng cao hơn hai trượng, theo một cái thang đi lên sẽ tới tầng cao nhất giấu trong mây.
Trong đại điện này ánh sáng còn sung túc hơn bên ngoài, bởi vì trên vách tường của mỗi tầng đều có một khung cửa sổ thật lớn. Chỉ liếc mắt một cái là có thể nhìn ra bầu trời xanh đến không chân thật ở bên ngoài. Trên song cửa to lớn cũng khắc hoa sen, so với hình hoa sen trên cửa thì đầy đủ hơn, mỗi cánh hoa đều được khắc rõ ràng.
Bỗng Tang cảm thấy hoảng hốt cực kỳ. Giờ phút này rốt cuộc nó cũng thấy rõ thứ mơ hồ giấu sau những đóa hoa sen kia. Đó là một pho tượng Phật, tựa như Triệu Văn An nói, trong Phật xá này có cả vạn pho tượng Phật được điêu khắc, mỗi pho tượng đều có bộ dạng độc đáo của riêng mình. Nhưng sở dĩ nó hoảng hốt vì pho tượng Phật phía sau hoa sen bỗng thay đổi, hóa thành một bộ xương khô đang ngồi xếp bằng, hai tay thành kính ôm một đóa hoa sen đang nở rộ.
Đôi mắt của bộ xương khô kia là hai lỗ đen, nhìn lâu rồi sẽ có cảm giác linh hồn cũng bị hút vào đó, thân thể bay lên, giống như không còn tồn tại trên thế gian.
“Ô Nạp kia làm cái gì cũng tốt, sao cứ phải tới độ hóa ta.”
Nó nghe thấy giọng mình, khàn khàn, tràn ngập sát khí. Nó hoảng tới độ vội vàng tìm kiếm nơi giọng nói phát ra và cuối cùng cũng thấy đại sư Ô Nạp nằm trong một góc đại điện, trên ngực cắm một thanh loan đao đang tỏa khí đen.
Máu tươi trào ra từ ngực ông ấy nhuộm đỏ áo cà sa màu vàng trông giống hệt hoa sen đỏ ở cái ao ngoài cửa.