Nơi tận cùng thế giới – Ngày thứ 98 – Người tạo ra chiến tranh –
cách thức của từ ngữ - Một đứa bé gái bị rối loạn tâm lý –
Những lời thú nhận – Quyển sách nhỏ màu đen của Ilsa Hermann –
Vài chiếc chiến hạm – Và những bông tuyết đang cháy
NƠI ṬẬN CÙNG THẾ GIỚI
(Phần I)
Một lần nữa, tôi sẽ mang đến cho bạn cái nhìn tổng thể về đoạn kết. Có thể tôi làm vậy là để xoa dịu phần nào tai họa sẽ xảy đến sau này, hay để bản thân tôi được chuẩn bị tốt hơn trong việc kể chuyện. Dù thế nào đi nữa, tôi cũng phải nói cho bạn biết rằng khi thế giới này sụp đổ lên Liesel Meminger, thì trời đang trút mưa xuống phố Thiên Đàng.
Bầu trời đang nhỏ giọt.
Nó như cái vòi nước mà một đứa bé đã cố gắng hết sức để khóa lại nhưng không được. Ban đầu, những giọt nước chảy ra từ cái vòi ấy vẫn còn mát lạnh. Ở giữa con phố, tôi cảm nhận được chúng trong lòng bàn tay mình khi đang đi từ phía cửa hàng của mụ Diller xuống.
Bên trên, tôi có thể nghe thấy chúng.
Qua nền trời u ám, tôi ngước nhìn lên và thấy những pháo đài bay. Tôi nhìn khoang bụng chúng mở ra và thả những quả bom xuống một cách ngẫu nhiên. Dĩ nhiên là chúng đã rơi lệch mục tiêu. Chúng vẫn thường rơi lệch mục tiêu.
MỘT NIỀM HY VỌNG NHỎ BÉ, BUỒN BÃ
Không ai muốn đánh bom phố Thiên Đàng cả.
Không ai muốn đánh bom một nơi được đặt tên là Thiên Đàng cả, có phải không nào?
Có phải không nào?
Những quả bom rơi xuống, và không lâu sau mây sẽ bị nướng lên, rồi những giọt mưa lạnh sẽ biến thành tro bụi. Những bông tuyết nóng bỏng ấy sẽ tưới xuống mặt đất.
Nói một cách ngắn gọn, thì phố Thiên Đàng đã bị san bằng.
Những ngôi nhà bị giật đổ từ phía bên này đường sang phía bên kia. Bức ảnh lồng khung của một vị Quốc trưởng trông rất nghiêm nghị bị va đập mạnh và rơi xuống mặt đất, vỡ vụn. Vậy mà ông ta vẫn mỉm cười, theo cái cung cách nghiêm trọng của mình. Ông ta biết một điều gì đó mà chúng ta không biết. Nhưng tôi biết một điều mà ông ta không biết. Lúc đó, tất cả mọi người đều đang ngủ.
Rudy Steiner đang ngủ. Mẹ và Bố đang ngủ. Bà Holtzapfel, mụ Diller. Tommy Muller. Tất cả đều đang ngủ. Tất cả đều đang chết.
Chỉ một người duy nhất còn sống sót.
Con bé sống sót bởi vì lúc đó nó đang ngồi trong một tầng hầm và đọc lại câu chuyện về cuộc đời của chính mình, kiểm tra lại những chỗ sai lỗi. Trước đó, gian hầm này đã được người ta kết luận là quá nông để trở thành một căn hầm trú ẩn, nhưng vào cái đêm ấy, ngày 7 tháng Mười, nó đã đủ sâu. Những mảng tường nhà đổ nát thi thoảng lại trút xuống, và nhiều giờ đồng hồ sau, khi sự im lặng lạ lùng, lếch thếch tự yên vị tại Molching, đơn vị LSE địa phương có thể nghe thấy một âm thanh gì đó. Một tiếng vọng. Ở dưới kia, đâu đó dưới kia, một đứa bé gái đang gõ vào thùng sơn bằng một mẩu bút chì.
NHỮNG MÓN ĐỒ ĐƯỢC CHUYỀN TAY,
TỪ TAY NGƯỜI NÀY SANG TAY NGƯỜI KIA
Những khối xi măng và gạch ngói lợp nhà. Một mảnh tường có hình vẽ một ông mặt trời nhỏ giọt…
Một cây đàn xếp trông thật thảm hại, đang len lén nhìn hé ra qua cái hộp đã bị ăn mòn của nó.
Họ ném tất cả những thứ ấy lên trên.
Khi một mảnh tường đổ nữa được dỡ ra, một người trong số họ nhìn thấy lọn tóc của kẻ trộm sách.
Người đàn ông ấy có một nụ cười mới đáng mến làm sao. Ông ấy đang chuyển ra một đứa trẻ vừa mới ra đời. “Thật không thể tin được, con bé vẫn còn sống!”
Có quá nhiều niềm vui giữa những người đàn ông đang gọi nhau, đang đào bới mớ hỗn độn ấy, nhưng tôi không thể chia sẻ sự nhiệt tình này của họ một cách trọn vẹn được.
Trước đó, tôi đã giữ bố của con bé trên một tay, còn tay kia là mẹ của nó. Linh hồn của mỗi người đều thật mềm mại.
Đằng xa, cơ thể của họ bị trải ra, cũng giống như những cái xác còn lại. Cặp mắt màu bạc đáng yêu của Bố đã bắt đầu han gỉ, và đôi môi nhàu nhĩ như giấy các-tông của Mẹ đang há ra cứng đờ, trông rất giống với hình thù một tràng ngáy còn dang dở của bà.
Những bàn tay cứu hộ kéo Liesel ra và phủi những miếng gạch đá khỏi quần áo cô bé. “Cô bé,” họ nói, “Còi báo động đã vang lên quá chậm. Cháu đang làm gì trong tầng hầm vậy? Làm sao mà cháu biết được sẽ có không kích cơ chứ?”
Điều mà họ không nhận thấy là con bé vẫn đang nắm chặt lấy quyển sách. Con bé hét lên câu trả lời của mình. Một tiếng hét bàng hoàng của người sống sót.
“Bố!”
Lần thứ hai. Mặt của nó nhăn lại khi tiếng hét đạt đến một cường độ cao hơn, kinh hãi hơn. “Bố, Bố ơi!”
Họ chuyền nó lên trong khi nó la hét, rống lên và nức nở. Dù con bé có bị thương đi nữa, thì nó vẫn chưa biết điều đó, vì nó đã vùng thoát ra khỏi những người cứu hộ và bắt đầu tìm kiếm, cất tiếng gọi, rồi lại rống lên khóc một chút nữa.
Con bé vẫn giữ chặt quyển sách.
Nó đang nắm giữ một cách tuyệt vọng lấy những từ ngữ đã cứu sống nó.
NGÀY THỨ 98
Suốt chín mươi bảy ngày đầu tiên sau khi Hans Hubermann về nhà vào tháng Tư năm 1943, tất cả đều ổn. Rất nhiều lần ông đã lặng người đi khi nghĩ đến cảnh con trai mình đang đánh nhau ở Stalingrad, nhưng ông hy vọng rằng phần nào sự may mắn của ông vẫn đang chảy trong huyết mạch của cậu ta.
Vào đêm thứ ba ở nhà, ông đã chơi đàn xếp trong gian bếp. Một lời hứa là một lời hứa. Đã có âm nhạc, món súp, những trò đùa, và tiếng cười của một đứa bé gái mười bốn tuổi.
“Đồ con lợn,” Mẹ cảnh cáo nó, “Đừng có ngoác mồm ra cười rống lên như thế chứ. Những trò đùa của lão ta không buồn cười đến mức đó đâu. Và chúng cũng nhơ bẩn nữa…”
Sau một tuần, Hans quay lại với nghĩa vụ của mình, ông vào thành phố, đến một trong những văn phòng của quân đội. Ông nói rằng thuốc lá và thức ăn ở đó được cung cấp khá đầy đủ, và đôi khi ông còn có thể mang về nhà vài cái bánh quy hay chút mứt thừa nữa. Mọi chuyện lại giống như những ngày xưa tươi đẹp. Một cuộc không kích nhỏ xảy đến vào tháng Năm. Thỉnh thoảng ông cần nói một câu Heil Hitler, và mọi chuyện đều ổn cả.
Cho đến ngày thứ chín mươi tám.
TUYÊN BỐ NHỎ CỦA MỘT BÀ GIÀ
Trên phố Munich, bà già nói, “Lạy các đấng Jesus, Maria và Joseph, tôi ước sao họ đừng có mang chúng đi qua đây. Những kẻ Do Thái khốn khổ khốn nạn này, chúng chính là sự xúi quẩy. Chúng là một điềm xấu. Lần nào thấy chúng, tôi cũng biết là chúng ta sẽ bị hủy hoại.
Đó cũng chính là bà già đã thông báo sự xuất hiện của những người Do Thái vào lần đầu tiên mà Liesel nhìn thấy họ. Nhìn bề ngoài, gương mặt của bà ta là một quả mận khô, chỉ có điều quả mận ấy có màu trắng như giấy. Bà ta có đôi mắt màu xanh sẫm u uẩn. Và dự đoán của bà ta là chính xác.
Trong mùa hè, Molching nhận được một dấu hiệu của những điều sắp tới. Nó di chuyển vào tầm nhìn của bạn như vẫn luôn như thế. Đầu tiên là cái đầu lúc lắc của một người lính, và khẩu súng chĩa lên khoảng không phía trên đầu anh ta. Sau đó là sợi xích bị kéo lê đi của những người Do Thái bị xiềng.
Điều khác biệt duy nhất là họ được mang đến từ hướng ngược lại. Họ đang đến thị trấn Nebling cạnh đó để cọ sạch những con đường và làm những công việc dọn dẹp mà quân đội từ chối không chịu làm. Sau đó, họ sẽ được dẫn về trại tập trung, những con người chậm chạp, mệt mỏi, và bị đánh bại.
Một lần nữa, Liesel lại tìm kiếm Max Vanderburg, và nghĩ rằng rất có thể anh đã bị bắt đến Dachau mà không bị dẫn đi ngang qua Molching. Anh không có trong đám tù nhân. Không phải lần này.
Tuy nhiên, hãy cho con bé thêm thời gian, vì vào một buổi chiều ấm áp tháng Tám nọ, chắc hẳn Max sẽ bị dẫn qua thị trấn cùng với những tù nhân còn lại. Tuy vậy, không giống như những người khác, anh sẽ không cúi gằm và nhìn xuống mặt đường. Anh sẽ tìm kiếm xung quanh, trong cái khán đài dân Đức của Quốc trưởng.
MỘT SỰ VIỆC VỀ MAX VANDERBURG
Anh sẽ tìm kiếm những gương mặt trên phố Munich để tìm một đứa bé gái ăn trộm sách.
Lần này, vào tháng Bảy, ngày mà sau đó Liesel tính ra được là ngày thứ chín mươi tám kể từ khi bố nó quay trở về từ chiến trường, con bé đứng đó và nghiên cứu cái đống đầy người Do Thái đang chuyển động ấy – để tìm Max. Nếu không gì khác, thì hành động này cũng làm khuây khỏa bớt nỗi đau của việc chỉ đứng đó mà quan sát của con bé.
Đó là một suy nghĩ kinh khủng, con bé sẽ viết trong tầng hầm của phố Thiên Đàng như thế, nhưng nó biết điều đó là sự thật. Nỗi đau của hành động đứng đó và quan sát họ. Vậy còn nỗi đau của họ thì sao? Nỗi đau của những đôi giày loạng choạng muốn ngã, những trò tra tấn, và những cánh cổng đóng chặt của trại tập trung thì sao?
Họ đi qua Molching hai lần trong vòng mười ngày, và không lâu sau đó, cái người đàn bà vô danh, mặt nhăn nhúm như quả mận khô trên phố Munich sẽ được chứng minh là đã nói hoàn toàn chính xác. Sự xúi quẩy chắc chắn đã xảy đến, và nếu họ có thể đổ tội cho những người Do Thái như là một lời cảnh báo hay một sự mở đầu của thảm họa, thì họ nên đổ lỗi cho Quốc trưởng và yêu cầu đối với nước Nga của ông ta, như là nguyên nhân thật sự của thảm họa ấy – vì khi phố Thiên Đàng thức dậy sau đó vào tháng Bảy, một người lính từ chiến trường trở về sẽ bị phát hiện ra là đã chết. Anh ta đang treo lơ lửng trên xà nhà của một cửa tiệm giặt ủi gần cửa hàng của mụ Diller. Lại một con người như quả lắc đồng hồ khác. Một cái đồng hồ khác, đã ngừng quay.
Người chủ cửa hàng bất cẩn đã để cửa mở.
NGÀY 24 THÁNG BẢY, 6:03 PHÚT SÁNG
Tiệm giặt ủi rất ấm cúng, những thanh xà nhà rất chắc chắn, và Michael Holtzapfel nhảy xuống khỏi cái ghế như thể nó là một vách đá.
Rất nhiều người đã đuổi theo tôi trong khoảng thời gian đó, họ gọi tên tôi, yêu cầu tôi mang họ theo cùng. Sau đó, có một nhóm người nhỏ thỉnh thoảng lại gọi tôi đến và thầm thì với giọng nói ngày càng nghẹn dần của họ.
“Hãy bắt tôi đi đi,” họ nói như thế và không ngừng lại. Hẳn nhiên rồi, họ sợ, nhưng họ không sợ tôi. Đó là một nỗi sợ của việc làm hỏng chuyện, và lại phải đối mặt với bản thân họ lần nữa, và đối mặt với thế giới, và những người giống như bạn.
Tôi chẳng thể làm được gì cả.
Họ có quá nhiều phương thức, họ xoay sở quá khéo léo – và khi họ làm việc đó quá hoàn hảo, dù phương pháp họ chọn có là gì đi nữa, thì tôi cũng không ở vào vị thế có thể từ chối được.
Michael Holtzapfel biết anh ta đang làm gì.
Anh đã tự giết mình vì đã muốn sống.
Dĩ nhiên là ngày hôm đó tôi chẳng nhìn thấy Liesel Meminger đâu cả. Như thường lệ, tôi đã tự nhủ rằng mình quá bận rộn để ở lại phố Thiên Đàng nghe những tiếng thét. Mọi việc đã đủ tồi tệ lắm rồi khi người ta bắt quả tang tôi tại trận, thế là tôi đưa ra quyết định thường lệ là tìm đường thoát ra, vào vầng mặt trời có sắc màu của một bữa điểm tâm.
Tôi không nghe thấy giọng nói của một ông già khi ông ta tìm thấy cái xác đang treo lơ lửng, hay âm thanh của những bước chân đang chạy và những khoảng ngắt quãng khi người ta há hốc mồm ra vì bàng hoàng lúc đến nơi. Tôi đã không nghe thấy tiếng một người đàn ông mảnh khảnh với một hàm ria mép lẩm bẩm, “Thật là một nỗi xấu hổ trắng trợn, một nỗi xuất hổ khốn khiếp…”
Tôi đã không nhìn thấy cảnh bà Holtzapfel nằm dài trên phố Thiên Đàng, tay duỗi ra, gương mặt đang gào thét của bà đắm chìm trong nỗi tuyệt vọng hoàn toàn. Không, tôi đã không phát hiện ra bất cứ điều gì trong những điều trên cho đến khi tôi quay lại sau đó vài tháng và đọc được một thứ có tên gọi là Kẻ trộm sách. Nó làm tôi hiểu ra rằng cuối cùng thì, Michael Holtzapfel đã bị hạ gục không phải do bàn tay bị thương của anh hay bất cứ vết thương nào khác, mà là vì nỗi cắn rứt khi vẫn còn sống.
Trong số những yếu tố dẫn đến cái chết của anh, đứa bé gái nhận ra rằng anh đã không ngủ, rằng mỗi đêm đối với anh như một ly thuốc độc. Tôi thường tưởng tượng ra cảnh anh nằm thao thức, đổ mồ hôi như tắm trên một tấm vải trải giường dệt bằng tuyết, hay nhìn thấy những hình ảnh về đôi chân nát nhừ của em trai mình. Liesel viết rằng có đôi lúc nó đã gần như kể cho anh nghe về em trai của chính nó, như đã làm với Max, nhưng dường như có sự khác biệt rất lớn giữa một cơn ho từ xa xăm vọng lại và hai cái chân đã bị hủy hoại hoàn toàn. Làm sao bạn có thể an ủi một người đã nhìn thấy những thứ như thế được? Liệu bạn có thể nói với anh ta rằng Quốc trưởng tự hào vì anh ta, rằng Quốc trưởng yêu quý anh ta vì những gì anh đã làm ở Stalingrad không? Làm sao mà bạn dám làm như thế? Dĩ nhiên, tình thế tiến thoái lưỡng nan ở đây là những người như vậy sẽ để dành những từ ngữ quan trọng nhất của mình cho thời gian sau này, khi những người xung quanh anh ta đủ bất hạnh để tìm thấy chúng. Một mảnh giấy, một câu nói, thậm chí là một câu hỏi, hay là một lá thư, như lá thư trên phố Thiên Đàng vào tháng Bảy năm 1943.