Liêu Trai Chí Dị

Chương 52: Tịch phương bình



Tịch Phương Bình người Đông An (1), cha tên là Liêm, thẳng tính nhưng nói vụng; nhân cùng một người nhà giàu họ Dương trong làng có chuyện hiềm khích. Họ Dương chết trước, mấy năm sau Liêm mắc bệnh nguy kịch, bảo mọi người rằng:

- Lão Dương nay đang lo lót ở dưới âm ty, sai người bắt tôi.

Được một chốc, mình mẩy tấy đỏ lên, kêu gào mấy tiếng rồi chết. Tịch buồn thảm, không ăn, nói:

- Cha tôi thực thà chất phác, nay bị loài quỷ dữ lăng nhục, tôi phải đánh đường xuống đất thân oan cho cha mới được.

Từ bấy giờ không nói năng gì nữa, lúc thì ngồi, lúc lại đứng, tình trạng giống hệt như người ngây, thì ra hồn đã lìa khỏi xác.

Thoạt đầu, Tịch cảm thấy mình ra khỏi cửa, không biết đi đâu. Nhìn trên đường thấy có người đi, bèn hỏi thăm đâu là thành quách của ấp. Một lát, vào đến thành thì cha mình đã bị giam vào ngục. Đi đến cửa ngục, xa xa trông thấy cha mình đang ngồi dưới thềm, có vẻ khổ sở lắm. Ngước lên nhìn thấy con, nước mắt ông bỗng trào ra, liền gọi:

- Quan lại ngục đứa nào cũng nhận hối lộ cả, và được rỉ tai trước cả, nên ngày đêm đánh đập tra khảo, đùi vế dập náp đến tệ hại.

Tịch nổi nóng lớn tiếng mắng quân canh ngục:

- Nếu như cha ta có tội, thì đã có phép vua, đồ quỷ chết rấp chúng bay há lại có thể hoành hành như thế được sao?

Mắng rồi bèn trở ra, kiếm giấy bút làm đơn. Vừa gặp thiên hầu buổi sớm của hoàng thành (2), chàng đệ đơn lên kêu oan. Họ Dương sợ, đút lót từ trong đến ngoài, rồi mới ra công đường đối chất. Thành hoàng lấy cớ lời tố cáo của Tịch không có bằng cớ, chẳng coi ra gì cả.Tịch uất ức mà không còn chỗ nào để giải bày, bèn cứ mò mẫm mà đi, chừng hơn trăm dặm thì đến quận, đem tình trạng quan lại chức dịch tư túi, trình lên viên quan đầu quận. Việc trì hoãn đến nửa tháng mới đem ra xét xử. Quan quận cho Tịch một trận đòn, rồi phê vào đơn, trả về cho thành hoàng xét lại án.

Tịch trở về ấp cũ, chịu đủ mọi thứ gông cùm, đau đớn oan ức không biết trút đi đâu cho hả. Thành hoàng sợ chàng lại kiện nữa, bàn sai nha dịch áp giải về nhà. Nha dịch đưa về đến cổng mới bỏ đi. Tịch không chịu vào, lại trốn xuống cõi âm, đến tận phủ Diêm vương, tố cáo tội tham tàn của quận và ấp. Diêm vương lập tức cho bắt cả hai đến đối chất. Hai viên qua mật sai người tâm phúc đến thương thuyết với Tịch hứa biếu tịch ngàn vàng. Tịch không nghe. Mấy hôm sau, chủ nhà trọ nói với Tịch rằng:

- Anh giữ ý khăng khăng quá, quan phủ đã cầu hòa mà cố chấp không nghe. Nay nghe đâu người nào cũng có thư riêng dâng lên Diêm vương, sợ việc hỏng mất.

Tịch cho là lời đồn vu vơ ngoài đường, cũng chưa tin lắm. Chốc lát có người mặc áo đen (3) gọi vào hầu.

Lên giữa công đường, trông thấy Diêm vương mặt có sắc giận, không nói năng gì, truyền đánh ngay hai mươi roi. Tịch xẵng giọng hỏi:

- Kẻ tiểu nhân có tội gì?

Diêm vương tảng lờ như không nghe. Tịch chịu đòn, kêu to lên:

- Phải đòn là đáng lắm! Ai bảo mi (4) không có tiền.

Diêm vương càng giận, truyền lệnh đặt lên giường lửa. Hai tên quỷ liền tóm lấy hai chân Tịch. Trông sang thềm phía đông thấy có chiếc giường sắt, lửa đốt ở phía dưới, cả mặt giường đều đỏ rực. Bọn quỷ cởi áo Tịch ra, đặt chàng nằm lên giường, đưa tay lăn qua lật lại. Đau buốt xương thịt cháy đen, khổ không chết đi được. Ước chừng hơn một giờ, quỷ bảo:

- Đủ rồi!

Bèn đỡ chàng dậy, bắt xuống giường mặc áo, may còn tập tễnh mà đi được. Lại dẫn đến trước công đường. Diêm vương hỏi:

- Còn dám kiện nữa không?

Tịch đáp:

- Oan to chưa giải, tấc lòng này vẫn không nguội lạnh; nếu nói rằng không kiện nữa chính là lừa dối đại vương thôi. Nhất định còn kiện nữa.

Lại hỏi:

- Lấy lời lẽ gì mà kiện?

Tịch đáp:

- Những cái thân tôi đang phải chịu đây, đều là lời lẽ cả đấy.

Diêm vương nổi giận, hạ lệnh dùng cưa, xẻ thân hình chàng ra. Hai tên quỷ liền kéo đi, nhìn thấy một cây gỗ dựng đứng, cao hơn tám chín thước, lại có hai tấm ván đặt ngửa ở phía dưới; từ trên xuống dưới máu còng đọng bê bết. Đang sắp chịu trói, bỗng trên công đường có tiếng gọi to:

- Họ Tịch kia!

Hai tên quỷ lại điệu chàng về ngay chỗ cũ. Diêm vương lại hỏi:

- Còn dám kiện nữa thôi?

Đáp rằng:

- Nhất định kiện nữa!

Diêm vương truyền lệnh bắt ra cửa mau. Đến dưới cây gỗ, bọn quỷ dùng hai mảnh ván kẹp Tịch vào giữa, rồi trói vào thân cây. Lưỡi cưa vừa hạ xuống, đã cảm thấy đỉnh đầu tách dần ra, đau không chịu nổi, nhưng cố nhịn đau không kêu. Nghe bọn quỷ nói với nhau:

- Gan thay anh chàng này!

Lưỡi cưa đưa xoèn xoẹt, xuống dần đến dưới ngực. Lại nghe một tên quỷ nói:

- Người này chí hiếu, không có tội gì, hãy cho lưỡi cưa lệch một tí, đừng để hại đến quả tim của hắn.

Liền cảm thấy lưỡi cưa cong chênh chếch mà ấn xuống, cang đau đớn khổ sở gấp bội. Chỉ giây lát nửa thân hình đã tách rời. Vừa cởi ván ra, hai mảnh thân đều đổ ụp. Quỷ lên công đường lớn tiếng trình báo. Trên công đường truyền gọi, bảo khớp thân thể lại rồi lên bái kiến. Hai tên quỷ tức thì đưa tay đẩy, khiến cho hai mảnh thân hợp ngay lại, rồi kéo dậy bảo đi. Tịch cảm thấy ở đường cưa đã dính liền, đau nhức nhối, chừng như lại muốn xé ra, đi nửa bước lại ngã dúi. Một tên quỷ rút ngay giải thắt lưng bằng dây tơ của mình ra, trao cho chàng, nói:

- Tặng cái này, để đền đáp lòng hiếu của ngươi.

Chàng nhận lấy đeo vào thì thân thể đột nhiên khỏe khoắn trở lại, không còn nhức nhối khổ sở chút nào. Bèn lên công đường sụp lại. Diêm vương lại vấn hỏi như trước. Tịch sợ lại tái diễn những cực hình tàn ác, đành đáp rằng không kiện nữa. Diêm vương lập tức hạ lệnh đưa chàng trở về dương gian. Sai nha đưa ra khỏi cửa Bắc chỉ vẽ đường cho chàng rồi quay đi.

Tịch nghĩ các công sở dưới cõi âm lại còn mờ ám hơn ở trên trần thế, nhưng không còn đường nào để kêu thấu đến tai thượng đế thì biết làm gì được. Thế gian vẫn truyền rằng có Nhị Lang (5) ở Quán Khâu là thân thuộc về bên ngoại Ngọc Đế. Vị thần này thông minh chính trực, đến đấy kêu tất có linh ứng khác thường. Lại mừng thầm hai tên sai nha đã đi rồi, bèn quay sang hướng Nam. Giữa lúc đang rong ruổi, bỗng có hai người đuổi theo nói:

- Đại vương ngờ ngươi không chịu về, nay quả thế thực.

Rồi tóm lấy chàng đưa trở lại yết kiến Diêm vương. Bụng nghĩ chắc Diêm vương lần này sẽ càng bực bội hơn, tai vạ lại càng thảm khốc; ấy thế mà Diêm vương không hề có sắc giận, chỉ bảo Tịch rằng:

- Lòng hiếu của ngươi thật chí thành. Nhưng nỗi oan của cha ngươi, ta đã rửa sạch cho rồi, nay đã được đầu thai vào nhà giàu sang, chẳng cần ngươi kêu nài làm gì nữa. Nay đưa ngươi về, cho ngươi một sản nghiệp đáng giá nghìn vàng, lại ban cho tuổi thọ, thì đã mãn nguyện hay chưa?

Bèn ghi vào sổ, đóng ấn lớn vào, sai lính đưa cho nhìn tận mắt. Tịch tạ ơn lui xuống. quỷ đưa chàng trở ra. Ra đến đường, đuổi mà mắng rằng:

- Thằng giặc gian hoạt này, luôn luôn tráo trở, khiến cho người ta phải chạy ngược chạy xuôi muốn chết! Nếu còn tái phạm thì phải bắt mà bỏ vào cái cối xay lớn, nghiền cho nát nhừ ra.

Tịch trừng mắt quát:

- Đồ ma quỷ, làm gì thế? Tính ta chịu được dao cưa chứ không chịu được roi vọt đâu. Xin hãy trở lại yết kiến đại vươngạc nhiên, nếu vương cho ta tự mình về lấy, thì cũng chẳng việc gì vất vả các anh đưa tiễn. Nói rồi liền quay trở lại. hai tên quỷ sợ, dùng lời ôn tồn khuyên dỗ chàng về. Tịch cố đi thực chậm rãi, đi được vài bước lại nghỉ ở bên đường. Quỷ nuốt giận không dám nói gì nữa. Chừng nửa ngày, đến một thôn kia, có ngôi nhà cánh cửa nửa mở nửa khép, quỷ kéo chàng ngồi xuống. Tịch nhân tiện ngồi tựa trên bậc cửa. Hai tên quỷ thừa lúc chàng không đề phòng, đẩy luôn vào bên trong cửa. Chàng thất đảm, định thần nhìn kỹ lại, thì thân mình đã hóa thành đưá trẻ sơ sinh. Phẫn uất chỉ kêu khóc, không bú ba ngày liền chết.

Vong hồn phiêu diêu đây đó mà vẫn không quên Quán Khẩu. Bôn tẩu chừng vài chục dặm, bỗng thấy một cỗ xe cắm lông chim đi tới, cờ quạt kiếm kích đứng chắn ngang đường. Đang vượt đường để tránh, chẳng may chạm vào nghi trượng, chàng bị mấy người cưỡi ngựa đi trước bắt được, trói lại giải đến trước xe. Ngẩng lên thấy ở trong xe có một người trai trẻ, tướng mạo khôi ngô, kỳ vĩ, hỏi Tịch là người nào? Giữa lúc lòng đầy oan ức mà chưa có chỗ để tuôn ra, lại nghĩ đây tất là một vị quan lớn, hoặc giả cũng là người có thể ra oai tác phúc được. Tịch bèn kể hết mọi nỗi thống khổ đau đớn của mình. Người trong xe truyền lịnh cởi trói cho chàng, và bảo đi theo sau xe. Lát sau, đến một nơi, có hơn mười quan viên ra đón ở bên đường. Nguời ngồi trong xe hỏi han từng người một. Thế rồi trỏ vào Tịch, bảo một vị quan rằng:

- Đây là người dưới âm, đang muốn đến đây tố tụng. Nên giúp anh ta làm rõ trắng đen ngay.

Tịch dò hỏi những người theo hầu, mới biết người ngồi trong xe là Cửu Vương điện hạ (6), con trai thượng đế, còn người mà ông dặn dò là Nhị Lang, Tịch nhìn Nhị Lang mình cao râu rậm, không giống như lời thế gian vẫn đồn.

Sau khi Cửu vương đa đi khỏi, Tịch theo Nhị Lang đến một tòa dinh thự, thì cha mình và họ Dương cùng đám nha lại đều đã có mặt. Chỉ thoáng chốc, trong xe tù lại có những tù nhân bước ra, đó là Diêm vương, viên quan đầu quận và thành hoàng.

Tất cả đều phải lên công đường đối chất và thẩm vấn. Những lời Tịch khai không có chỗ nào dối trá. Ba viên quan run lẩy bẩy, trông bộ dạng y như những con chuột bò mọp dưới đất. Nhị Lang cầm bút phê ngay bản án, khoảnh khắc sau truyền đưa phán quyết xuống cho mấy người can án cùng xem.

Án rằng:

“Kẻ giữ ngôi báu dưới Diêm La: Chức phong cho đến tước vương; thân chịu ơn Thượng Đế. Tự mình phải giữ lòng cao khiết; để nêu gương dẫn dắt quần thần. Không nên vẩy mực đua tham; chuốc lấy tiếng dèm quan nhuốc. Thế mà cũng yên đai kiếm kích; luống khoe khoang phẩm trật cao sang. Gớm thay loài dê độc lang tham; làm điếm nhục cả nhân thần khí tiết. Đục đánh khăng, dùi liền đánh đục, vợ con người còng trơ mỗi xương da; kình vồ cá, tôm bị cá vồ, mạng sâu kiến nhỏ nhoi đáng xót. Vậy nên: vốc nước Tây giang, vì ngươi rửa ruột; tất phải: đốt đường Đông Bích, mời bác vào vò (7).

Thành hoàng, quận thú: là chức quan phụ mẫu chi dân; giúp Thượng đế trâu dê chăn dắt.Dẫu phẩm trật đứng vào hàng thấp; mà tận tâm nào sợ gãy lưng (8). Hoặc có khi chịu sức ép quan trên; người vững chí cũng cần cứng cổ. Thế mà: trên dưới vung tay làm diều làm ó, quên phắt đi dân chúng khốn cùng; lại nữa: dương dương đắc chí giảo hoạt gian manh, nào sá kể mình là quỷ đói. Vì của đút mà bẻ cong pháp luật; thật là quân dạ thú mặt ngưòi. Cho nên cần rút tủy nhổ long, liệt vào tội chết; kể cũng đáng lột da xé xác, bắt phải đầu thai.

Bọn sai nha: đã phiên chế vào nha môn ma quỷ; còn làm sao giữ cho được tính người! Nơi cửa công lẽ ra nên tu tỉnh hành vi, ngõ hầu có dịp hoàn sinh; chốn bể khổ cớ sao dám khuấy cho nổi sóng, gây thêm một trời oan nghiệt? Tung hoành như cường khấu, mặt chó gầy tháng sáu sinh sương (9) phá phách lại kêu làng, cậy oai hổ chặn đường chín ngả (10). Chốn u minh mặc sức ra uy, ai cũng biết cai tù thân thể, giúp hôn quan làm điều bạo ngược, người đều kinh đồ tể (11) to quyền. Thật đáng đem ra trước pháp trường, chân ta chặt hết; lại phải ném vào nước sôi trong vạc, rút hết gân xương.

Dương Mỗ kia: giàu có mà bất nhân; ranh ma thêm điêu trá. Đem vàng chóe che trùm địa phủ, khiến cõi âm tối tăm mù mịt, điện Diêm La khuất lấp mây mù, để hơi đồng xông thấu trời cao, làm cho thành chết uổng bao người, không được chứng đôi vầng nhật nguyệt. Mùi tiền tanh còn khiến sai được quỷ; sức bạc mạnh thông suốt thẳng đến thần. Cần tịch thu gia sản họ Dương; để đền đáp hiếu tình chàng Tịch”.

Lập tức giải phạm nhân ra núi Đông Nhạc thi hành bản án. Lại nói với Tịch Liêm:

- Nghĩ đến lòng hiếu thảo của con ngươi, và tính ngươi cũng hiền lành, vậy tăng tuổi thọ thêm ba kỷ nữa (12).

Nhân sai hai người đưa họ về làng. Tịch bèn sao chép lại bản án, trên đường đi hai cha con cùng xem. Về tới nhà Tịch sực tỉnh lại trước, bảo người nhà mờ áo quan để nhìn cha, thì xác còn cứng đờ lạnh như băng. Đợi suốt một ngày mới nóng dần lên, rồi sau sống lại. Kịp đến khi tìm tờ sao bản án thì không thấy đâu nữa.

Từ đấy nhà càng thịnh vượng; trong khoảng ba năm ruộng tốt đầy đồng. Mà con cháu họ Dương trở nên nghèo hèn; lầu gác ruộng nương hết thảy đều về tay họ Tịch. Trong làng cũng có người mua những ruộng ấy, đêm nằm mộng thấy thần nhân đến mắng:

- Đây là sản vật của nhà họ Tịch, ngươi làm sao có được?

Trước kia còn chưa tin lắm, đến khi trồng trọt thì suốt năm không thu hoạch được lấy một đấu thóc; vì thế lại phải bán về cho Tịch.

Cha con Tịch đều sống đến hơn chín mươi tuổi mới mất.

NGUYỄN HUỆ CHI dịch

Chú thích(1) có nhiều nơi mang tên Đông An. Có thể đây là tên một châu xưa, nay thuộc tỉnh Hà Bắc.

(2) thành hoàng: viên quan ở âm phủ, coi một ấp.

(3) người mặc áo đen: lính hầu ở các nha môn ngày trước.

(4) Nguyên văn: “ngã” là tôi, chúng tôi dịch thoát.

(5) Nhị Lang: Chỉ Dương Tiễn, theo truyền thuyết là cháu ngoại của Ngọc Hoàng thượng đế.

(6) điện hạ: tiếng xưng hô của hoàng tử hoặc vua chư hầu.

(7) Ý nói người giữ cán pháp luật mà bất minh thì phải xử theo pháp luật. Theo tư trị thông giám: Chu Hưng là quan hữu thừa đời Đường, cùng Lai Tuấn Thần, đều là những lại ngục tàn ác. Có lần Chu Hưng phạm tội, Võ Tắc Thiên mật sai Tuấn Thần thẩm vấn. Tuấn Thần đến hỏi Chu Hưng: nếu thẩm vấn tội nhân mà chúng không chịu khai thì nên dùng cách gì? Hưng bảo: lấy một chiếc vờ lớn nung đỏ lên rồi bỏ phạm nhân vào đấy thì chúng phải khai ngay. Tuấn Thần làm như lời Hưng nói, xong bảo Hưng rằng: Trong cung có cáo giác anh phạm tội, vậy xin mời anh vào vò ho. Hưng đành sợ hãi cúi đầu nhận tội.

Các điển tích “nước Tây Giang” và “giường Đông Bích” nhiều chú thích trước nay đều chưa thật rõ.

(8) Xuấ xứ từ điển tích Đào Tiềm đời Tấn không vì mấy đấu gạo mà chịu gãy lưng. Ở đây ý nói cúc cung tận tụy vì công việc.

(9) Mặt chó gầy tháng sáu sinh sương: Ý muốn hình dung khuông mặt bon nha lại nham hiểm, sắ trắng nhợt. Ngoài ra có còn nói thêm ý nghĩa: chính bọn quan lại đó bẻ cong pháp luật, muốn làm gì thì làm, nên dân chúng phải chịu nhiều oan khuất. Xuất xứ từ điển tích: Trâu Diễn thời chiến quốc trung thành với Yến Huệ vương, khi Yến bị hạ ngục, Diễn ngữa mặt lên trời mà khóc. Trời cảm động nên mặc dầu đang giữa mùa hạ, mà sương vẫn rơi xuống.

(10) đường chín ngả: Tức con đường lớn, phần lớn là đưòng ở kinh đô.

(11) đồ tể: nguyên văn là “đồ bá” là biệt hiệu dân chúng dành cho Nghiêm Diên Niên đời Hán, một viên thái thú tàn ác, giết hại rất nhiều tù phạm. Chúng tôi dịch thoát.

(12) một kỷ là mười hai năm.