Môn Phiệt hay gia môn thế phiệt là cụm từ xuất phát từ phương Bắc cổ đại, chính là dùng để chỉ dòng dõi cùng công huân hợp xưng mà thành.
Công Huân sẽ được các gia tộc này đúc lên hai toà cột đá, đặt tại trước cổng, màu đen sẫm, lần lượt gọi Tả Phiệt, Hữu Duyệt.
Gia tộc bình thường dù có gia sản bạc triệu cũng không có đủ tư cách để khắc lấy cái cái cột công Huân nay, cùng lắm chỉ có thể khắc lên tường thạch, đặt phía trong nhà làm vật biểu trưng.
Cái gọi là môn phiệt kỳ thật ở Đại Việt không giống phương Bắc, thế nhưng tương tự thì vẫn có, chuẩn chỉ hiện tại tổng có năm gia tộc tương xứng lần lượt là Lý, Lê, Dương, Quách và Nguyễn.
Lý gia là Hoàng Tộc, tạm gạt qua một bên không tính.
Bốn gia tộc còn lại họ Dương lâu đời nhất, họ Quách thì tân thời nhất.
Các dòng tộc nhỏ hơn cắm rễ tại địa phương, bản thân có đất có quyền nuôi được tư thì binh xưng hào cường, lớn hơn nữa thì gọi quân phiệt.
Dù sao mô hình nhà nước thời Lý là mô hình quân chủ quý tộc, có chút gì đó giống với các nước châu Âu thời trung cổ, ở đó quân vương không thể chuyên quyền độc đoán như các triều đại phương Bắc hay thời Lê, Nguyễn sau này được.
Ban đầu Đỗ Anh Vũ là nghĩ vì Lý Triều các quân vương sùng Phật, mà Phật thuyết chúng sinh bình đẳng thế nên mới không có chuyện chuyên quyền, sau thì mới thấy bản thân nhầm lẫn.
Kể cả không tôn Nho, không trọng cái thuyết Thiên Địa Quân Thân Sư thì Phật Giáo ở thời kì vẫn này là thuộc về Phái Tiểu Thừa của Ấn Độ Giáo, chính là cái Thiên Thượng Thiện Hạ, Duy Ngã Độc Tôn, trên đời chỉ có một Phật chứ không phải chúng sinh đều là Phật như phái Đại Thừa sau này thuyết giảng, vậy nên trong triều đại cũng có vài vị quân vương đã tự xưng mình là Phật để biểu hiện cho sự độc tôn duy nhất của mình.
Quyền lực của vua lớn nhất nằm ở trung tâm kinh thành, càng về các vùng xa xôi thì sức ảnh hưởng càng nhỏ yếu, trận chiến tại Ma Sa Động năm ngoái là một dẫn chứng điển hình, khi ở đó mặc cho Bệ Hạ thân chinh, đám dân chúng trong vùng bọn hắn chỉ biết Động Chủ chứ không có biết Quân Vương.
Lạng Châu là đất của người Tráng, Tày, Nùng sinh sống... thủ lĩnh ban đầu là họ Giáp, ám chỉ động chủ Động Giáp nên lấy tên đất làm họ, sau này quy phục Lý thị Hoàng Tộc, cưới công chúa, đổi thành họ Thân, truyền thống này kéo dài cho đến nay vẫn vậy.
Thế nhưng dân cư phía dưới thật quy phục Lý thị sao?
Đỗ Anh Vũ cho rằng không có!
Bọn hắn đơn giản là vẫn theo họ Thân, họ Thân theo Hoàng Tộc thì bọn hắn cũng theo, một ngày nào đó họ Thân ngả hướng ngoại tộc, bọn hắn hẳn cũng không có ngoại lệ.
Cái thuyết trung quân ái quốc hiện tại trong dân chúng vẫn còn tương đối mơ hồ.
Nghe lão Nội thị một buổi nói chuyện, Đỗ Anh Vũ ngoại trừ cười khổ thì vẫn chính là cười khổ, cảm thấy quân vương thời kỳ này làm không dễ, nếu như là chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền như Lê Sơ sau này thì hẳn sẽ dễ dàng khống chế đại cục hơn.
Đỗ Anh Vũ lợi dụng cơ hội, nửa đùa nửa thật cười nói:
- Bệ Hạ năm ngoái thì đánh Tây Bắc, hiện tại lại đau đầu chuyện Đông Bắc, thật là mệt mỏi a, có khi nào chuyển hệ, tôn Nho độc Quyền như Phương Bắc thì liệu sẽ dễ dàng cho người hơn không?
Lão nhân lườm hắn, thở dài một tiếng rồi đáp:
- Chuyện này ngươi ta nói chuyện thì không sao, coi như chuyện phiếm, thế nhưng lời như vậy không thể nói ra bên ngoài...
Đỗ Anh Vũ a một tiếng, bộ dạng lập tức giống như học trò lắng nghe lão sư, chắp tay thỉnh giảng.
Lão Nội thị cũng chẳng dấu diếm, nhàn nhạt nói:
- Phật giáo cùng Lý Triều tựa như nước cùng thuyền, phải đồng thời tồn tại...
- Cớ sao lại vậy? - Đỗ Anh Vũ có chút không hiểu.
Nói quân dân như nước với thuyền thì hắn hiểu rõ, còn nói kiểu này thì thật là có chút biến vị rồi.
Lão nhân khẽ cười, không trách họ Đỗ ngu muội, đường hoàng nói tiếp:
- Ngươi biết xưa này tiền của để phục vụ cho Hoàng Tộc, đa phần là đến từ đâu không?
- Chẳng có lẽ... - Đỗ Anh Vũ trợn tròn con mắt.
Lão Nội thị gật đầu, đáp:
- Không sai, phần nhiều chính là đến từ Phật giáo mang lại!
Mẹ kiếp, Đỗ Anh Vũ hắn thật không nghĩ đến chuyện này.
Các vùng đất tự nhiên sẽ có các địa chủ tương xứng, Hoàng Tộc chính là địa chủ lớn nhất, thu thuế hàng năm, nông dân nộp thuế vụ lên cho chủ tô, quan lại địa phương rồi phải qua một đám trung gian mới có thể nộp lên đến triều đình, lúc đó thì còn lại bao nhiêu?
Mà thuế vụ tất nhiên phải tập trung vào quốc khố, dùng cho việc nước, vậy Bệ Hạ tiền riêng, Hoàng Tộc tiêu pha thì phải làm thế nào?
Đáp án không có đâu xa, chính là Phật Giáo!
Tiền của chúng sinh Công Đức tự nhiên không có Thuế, một phần trong đó hẳn là trực tiếp cống nạp cho Bệ Hạ.
Cứ như vậy, Quân Vương các đời tôn Phật, Phật Giáo thì lấy tiền tài từ chúng sinh Phật Tử, trong đó sẽ có một phần dành cho Quân Vương, quả thật là mối quan hệ song thắng, đôi phương cùng hưởng lợi.
Cứ như vậy tạo thành một vòng tròn khép kín giữa quân chủ và dân chúng, mà ở đó Phật giáo làm trung gian.
Ha ha.
Đỗ Anh Vũ cười lắc đầu tự diễu, lão nhân thì bình bình đạm đạm, cả người ngay thẳng, cũng chẳng trách tội hắn lời lẽ ngông cuồng, chỉ từ tốn giảng giải:
- Năm ngoái Tây Bắc chiến cuộc, Bệ Hạ một phần túng quẫn cũng vì Phật Môn không có chu cấp, lý do thì ngươi tự hiểu...
- Là do vụ án ở Vô Ưu Tự, Văn Minh lão tăng?!
Lão Thái Giám gật đầu, cũng không có nói sâu thêm, ánh mắt lão bình thản nhìn ra phía mặt hồ tĩnh lặng, khẽ cười nói:
- May mắn có quỷ kế của ngươi, nếu không chiến dịch là đã bị ngăn trở từ trong trứng nước.
Đỗ Anh Vũ nghe thấy liền không phục, mẹ nó cái đó gọi là sáng kiến thông minh, sao có thể xưng quỷ kế.
Nói thật, ngày hôm nay lão thái giám để lại cho Đỗ Anh Vũ một ấn tượng hoàn toàn khác, tựa như một hiền lành lão gia cùng hậu bối giảng giải mọi điều, chứ không phải một lão nhân mặt mày âm trầm như lúc còn tại kinh thư.
Có lẽ nơi đó thật sự giống như một cái lồng giam, khiến con người ta ai ở bên trong hay tiến vào đều cũng phải cẩn thận giữ kẽ.
Nghĩ tới điều này, Đỗ Anh Vũ chợt nhớ tới cha mẹ kiếp này của mình, lúc này bọn hắn đã chuyển vào kinh thành sinh sống, mỗi bước đều phải cẩn trọng, nghĩ tới điều này hắn liền cảm thấy lo lắng thay cho bọn hắn.
Giống như lão nhân này nói, người sống ở trên đời khó ai có thể hoàn toàn tự do tự tại, ngược lại đa phần đều thân bất do kỉ.
Trước khi làm kì thủ, tất cả đều phải cam chịu làm một quân cờ cho một ai đó.
Mệnh số chính là vậy.
Lão Nội Thị buông cần nửa ngày không thấy cá câu, liền quay sang chỗ họ Đỗ, cười mắng hắn treo đầu dê bán thịt chó, nói cái hồ này căn bản không có nuôi cá.
Đỗ Anh Vũ cũng ngu ngơ cười, làm bộ ta thật không có biết.
Hai người già trẻ một bên nói cười, không khí tường hoà có phần thoải mái, nhận thấy nói chuyện đã đủ lâu, điểm đến là dừng, lão nhân phủi mông đứng dậy, nheo mắt nhìn về phía vui vẻ chơi đùa tiểu công chúa, rồi từ từ quét qua chỗ của Đỗ tiểu tử, có chút ngập ngừng phức tạp, muốn nói lại thôi, sau thì thở dài, lão trầm giọng nói:
- Ngươi có thể không biết, Bệ Hạ người rất sủng ái ngươi, Đỗ Anh Vũ, đừng làm Bệ Hạ phải thất vọng.
Đỗ Anh Vũ nhất thời nghe không ra ý tứ bên trong đó, thế nhưng hắn vẫn nhanh chóng gật đầu hồi đáp, nhận thấy lão muốn đi, hắn liền đứng dậy chắp tay hành lễ, nghiêm túc đáp:
- Cảm tạ Đại Tổng Quản hôm nay giảng giải, nghe quân một ngày thắng 10 năm đọc sách, tiểu tử hôm nay sẽ thật khắc sâu ghi nhớ.
Lão Nội Thị mỉm cười, lắc đầu tự giễu:
- Lão thì chỉ là một kẻ tàn khuyết người, không xứng nhận làm Quân, Đỗ công tử ngươi là môn sinh của Bệ Hạ, việc này lão chỉ thay mặt mà làm thôi, nếu có tạ thì hãy tạ Bệ Hạ đi.
Ngay khi lão Nội Thị quay đầu bước đi, Đỗ Anh Vũ chợt nhớ ra điều gì, vội vã gọi với theo:
- Đại Tổng Quản, chúng ta xem như quen biết đã lâu, đến giờ tiểu tử vẫn không biết quý danh của ngài thì thật thất trách...
Lão Nội Thị ngoái đầu nhìn lại, khuôn dung cũng thoáng lộ vẻ bất ngờ, thật không nghĩ tới Đỗ Anh Vũ lại nhắc tới điều này liền lắc đầu cười đáp:
- Ngươi đã già, sống lâu trong cung, nhiều lúc lão cũng quên mất đi tên của mình...
Nhìn về phía trên tiểu tử đang chắp tay phía trước, lão nhàn nhạt đáp:
- Lão họ Ngô, công tử về sau gọi lão Ngô là được!
Dứt câu, lão Nội thị liền không chút vướng bận rời đi, để lại Đỗ Anh Vũ đứng phía sau nhíu mày thật sâu suy nghĩ.
Họ Ngô sao?
...
Ngay khi lão nhân rời đi, tiểu công chúa Lý An Bình núp núp nãy giờ mới lon ton chạy tới, nhìn bóng lưng của lão rồi lại nhìn về chỗ họ Đỗ, nàng nhoẻn cười nói:
- A Vũ, chiều nay chúng ta đi đâu?
Đỗ Anh Vũ lúc này mới sức nhớ ra mình có hứa với Lý An Bình sẽ dẫn nàng đi chơi một ngày, ngẩng đầu lên trời nhìn thì thấy lúc này đã là chiều muộn, sắp gần hoàng hôn, hiện tại thì làm gì cũng đã trễ nải, hắn liền quay sang chỗ nàng, ngại ngùng cười gãi đầu:
- Tiểu Bình Tử, hiện tại cũng đã muộn, chuyện này... hay là để khi khác?!
Lý An Bình một mặt phụng phịu, nàng cũng hiểu thế nhưng nữ nhân mà, ấm ức thì vẫn ấm ức.
Tiểu nữ nhân đứng đó, không gật cũng chẳng lắc, chỉ lẳng lặng đưa đôi mắt mọng nước, một mực chờ đợi nhìn về chỗ Đỗ tiểu tử.
Con mẹ nó!
Hắn sợ nhất chính là ánh mắt như thế này, vắt óc suy nghĩ một chút, hắn lập tức nhớ ra một chuyện có thể làm, liền lập tức vui vẻ nói:
- Thế này đi, hiện tại ra bờ biển vẫn còn kịp, ta mang ngươi ra đó ngắm hoàng hôn trên biển, thế nào được chứ?
Tiểu công chúa đôi mắt to tròn sáng bừng hẳn lên, không nghĩ ngợi nhiều, lập tức gật đầu đáp ứng.
Thế là giống như không kịp chờ đợi, hai người tay lớn nắm tay nhỏ kéo nhau rời đi, Dương Đoan Hoa lúc này cũng bị họ Đỗ đạp võng kéo dựng dậy lôi đi theo.
Ngoài phủ đệ, Quách Ngọc Như chỉ kịp dặn dò một chút rồi lẳng lặng nhìn xe ngựa rời đi mất, lắc đầu cười rồi bước vào bên trong chuẩn bị bữa tối cho hai đứa bé này.
Xe ngựa một đường bon bon chạy, ra tới bờ biển vừa kịp lúc chuyển giao chạng vạng, nhìn xa xa về phía chân trời, nhìn mặt trời như một quả bóng tròn đỏ au xuyên qua rạng mây từ từ hạ xuống, Lý An Bình lần đầu thấy mặt trời lớn đến như vậy, nàng giống như chim nho sổ lồng ngay lập tức kéo tay Đỗ tiểu tử chạy về phía biển cả.
Hai người tháo giày chạy bộ trên cát, để lại đó hai hàng chân nhỏ song song chạy cùng tiếng cười hi hi ha ha lại phía sau.
Ra đến bờ biển, Lý An Bình vai tay vén váy, cảm nhận đôi bàn chân trắng ngâm tại nước biển, thỉnh thoảng một mặt hớn hở vung chân đá lên, nước văng lên không trung tạo thành những đường cong, dưới ánh chiều tà thì lung linh tựa cầu vồng, càng giống như tô điểm cho dáng vẻ yêu kiều tựa nụ hoa mới nở của tiểu công chúa.
Nàng nhìn biển, hắn thì nhìn nàng, đột nhiên nở nụ cười xấu xa, Đỗ Anh Vũ ha ha nói:
- Tiểu Bình Tử, Sau này ta sẽ không bao giờ quên cái cảnh ngươi hôm nay trước mặt ta vén váy khoe chân.
- Xí! Tên dê xồm! - Tiểu công chúa lườm nguýt, chu môi mắng hắn.
Đỗ Anh Vũ cười cười, đột nhiên nhớ ra một chuyện liền mở miệng hỏi:
- Tiểu Bình Tử, người là thánh sứ, hẳn lần này là mang theo thánh chỉ đúng chứ?
Tiểu công chúa đang vui vẻ, nghe thấy câu hỏi liền có chút mất hứng, nàng hừ lạnh nhìn sang, vểnh lên môi nhỏ, duyên dáng ngạo kiều, hếch cằm nói:
- Bổn công chúa chính là thánh chỉ! Thế nào? Ngươi tiếp hay không tiếp?!
Dưới ánh hoàng hôn tỏa chiếu sau lưng, Lý Anh Bình sinh động đứng đó khiến Đỗ tiểu công tử thoáng chốc có chút ngẩn người.
Sau thì lắc đầu bật cười.
Chắp tay cúi đầu nói:
- Thần... tiếp chỉ!!
Bạch y thiếu niên cùng váy hống thiếu nữ vai kề vai, gần nhau san sát, cùng hoàng hôn cảnh biển hợp thành một bức tranh tuyệt mĩ.
Nếu có danh xưng cho nó, Đỗ Anh Vũ sẽ gọi bức hoạ này là Bạch Hồng Quán Nhật.
...
P/s: Tất cả những thứ được viết ở chương này đều là suy diễn của tác giả, các bạn đọc chớ coi là thật.