Cả người tôi chấn động, hay ít nhất cũng là cảm giác của tôi về bản thân. Cũng có thể là do căn phòng. Chắc chắn những bức tường không còn vững chãi nữa; chúng tỏa sáng lung linh và nhảy múa như thể ánh sáng huyền ảo đang chuyển động, phản chiếu qua cả một nghìn lăng kính xoay.
“Julia.” Giọng nói lại vang lên, tôi chậm chạp quay đầu lại, với nỗ lực tập trung cao độ, hướng về phía phát ra giọng nói.
Đầu tiên, tôi không thể nhìn thấy thứ gì ngoài khung cửa phòng mở toang, một hình thù màu xám quái dị chặn ngang tầm nhìn ra ngoài hành lang. Hình thù màu xám quái dị mỗi lúc một phình to và trôi bồng bềnh, như những đám mây, về phía tôi, gọi tôi bằng giọng đàn ông rõ ràng mỗi lúc một sắc bén hơn.
“Julia.”
Ý nghĩ đầu tiên của tôi là, đó không phải tên mình, rồi tôi nghĩ, nhưng mình biết giọng nói ấy, rồi lại nghĩ, Ôi, đó là Tommy, càng thêm chắc chắn, đúng là anh trai đang đứng trước mặt tôi, khoác lên vẻ mặt cha tôi mỗi lần thấy một trong hai anh em bị ốm. Đó là vẻ mặt khổ sở và lo lắng xen lẫn bất lực thảm thương, lời đáp của tôi hoàn toàn vô thức. “Em ổn mà, Tom. Thật đấy.” Rồi nói tiếp, khi thực tại tác động đến mình mạnh mẽ hơn, “Anh đang làm cái trời ơi đất hỡi gì ở đây thế này?”.
Anh lờ câu hỏi của tôi đi, tiếp tục nhìn tôi chằm chằm với đôi mắt lúc này dường như trở nên hứng khởi tột độ hơn là lo lắng. “Em không ở đây”, anh tuyên bố với giọng căng thẳng, “phải không? Em ở một nơi khác. Là ai đó khác”.
Tôi vẫn quỳ trên sàn, buộc bản thân chuyển sang tư thế đứng dậy, cảm giác các khớp xương kêu răng rắc phản đối. Một cách im lặng, tôi gật đầu.
Tâm trí tôi chắc chắn không còn nghi ngờ gì về chuyện vừa xảy ra. Mái tóc ướt đẫm, khi tôi gạt khỏi gương mặt và bùn bám đầy trên đôi giày lẫn sàn nhà bằng gỗ, lấm lem nơi tôi bước qua trong xưởng vẽ. Bàn tay cứng ngắc và đỏ bừng vì lạnh, tôi ngơ ngẩn nhìn chằm chằm xuống chúng, như thể ngạc nhiên khi phát hiện ra chúng thuộc về cơ thể mình.
“Lạy Chúa”, Tom thở hắt ra, đôi mắt vẫn ghim chặt vào tôi.
Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy anh thốt ra cụm từ đó kể từ khi tốt nghiệp trường Oxford. Anh nghiêng đầu và nheo mắt lại. “Em có tí rượu brandy nào trong nhà không thế?”
“Hả?” Bối rối, tôi liếc xuống chiếc đồng hồ đeo tay. “Anh Tom, giờ mới mười rưỡi. Anh không nghĩ vẫn còn hơi sớm sao? Nhất là với một người mặc quần áo tu hành như anh.”
Nụ cười nhăn nhở của anh thật thiếu tôn kính. “Anh đảm bảo Chúa sẽ tha lỗi nếu anh uống cả một thùng brandy trong những dịp đặc biệt. Nhưng rượu không phải dành cho anh. Em mới cần brandy đấy, cưng ạ. Chết tiệt, trông em kinh khủng quá.”
“Mục sư không được nói chết tiệt”, tôi vụng về nhắc nhở.
“Thật may vì giám mục không ở đây để nghe thấy”, Tom vặn lại, dùng tay đẩy tôi qua căn phòng để đi ra ngoài hành lang, hướng tôi về phía cầu thang.
“Em không có chút brandy nào trong nhà hết”, tôi cự nự, nhưng sau đó thỏa hiệp, “nhưng em nghĩ vẫn còn một ít Grand Marnier[1] trong tủ trên lò sưởi”.
[1] Một loại rượu cognac nổi tiếng.
“Tuyệt”, Tom nói. “Được đấy.”
Tôi phải nỗ lực rất nhiều mới đi được xuống cầu thang, đôi chân cứng đờ kỳ quặc đã gây nhiều trở ngại, cho đến khi tôi nhận ra rằng, khi là Mariana Farr, tôi đã phải đi bộ tám dặm sáng nay.
Tom thô lỗ ấn tôi ngồi xuống bàn ăn trong bếp, xác định vị trí của chai Grand Marnier và hào phóng rót một lượng lớn vào chiếc ly cho tôi. Dưới ánh mắt nghiêm khắc và ép buộc của anh, tôi đành phải uống. Rượu nóng chảy khắp người tôi, mang màu đỏ sậm lên làn da và xua đuổi tình trạng tê cứng khỏi những đầu ngón tay. Tôi lại uống thêm một hớp, gạt mái tóc nhớp nháp khỏi đôi mắt và ngước lên nhìn Tom.
“Anh vẫn chưa nói mình đang làm gì ở đây”, tôi nhắc nhở.
“Thăm em chứ gì nữa”, đó là câu trả lời đơn giản. “Không có việc gấp phải làm hôm nay nên anh nhường quyền phụ trách lại cho cha phó và lái xe đến đây. Anh muốn xem em thế nào - để đảm bảo mọi thứ vẫn ổn. Và anh muốn đưa cho em cái này”, anh thêm vào, nhìn xuống chồng giấy tờ dày cộm đặt trên chiếc bàn chắn giữa chúng tôi. Tiêu đề của đám tài liệu trên cùng cho thấy rõ ràng đây là những thông tin mà người bạn làm thủ thư của Tom đã đào xới được. Giờ Tom đang nhìn nó như thể nó đã mất đi phần nào tầm quan trọng, như thể từ những gì vừa được chứng kiến, đám tài liệu này đã trở nên dư thừa.
“Dù sao đi nữa”, anh tiếp tục, “khi đến, anh phát hiện cửa hậu mở tênh hênh và ngôi nhà thì vắng vẻ. Anh gọi to nhưng không ai trả lời nên đã đi lên tầng kiểm tra phòng ngủ của em và thấy giường của em đã được thu dọn, nghĩa là có thể em đã dậy sớm và tự mình thu dọn”, đôi mắt thẳng thắn của anh báo cho tôi biết rằng anh thấy ý nghĩ ấy vô lý đến cỡ nào, “hoặc em không hề ngủ ở đấy. Nghĩ vậy, anh bắt đầu thấy lo lắng, anh vừa xuống tầng dưới để quyết định nên làm gì tiếp theo thì em lao ào ào qua cửa hậu, mắt trợn trừng như một con cừu và quần áo nhỏ nước tong tong lên khắp sàn”.
“Em có nói gì không?”
“Không.” Anh lắc đầu. “Em chỉ đứng cạnh cửa một lúc, rồi đi thẳng qua anh và leo lên tầng đến phòng vẽ của em. Anh nghĩ mình có thể đợi em tự thoát ra một cách tự nhiên, nhưng anh e mình đã quá hoảng sợ. Anh có làm gián đoạn chuyện gì quan trọng không?”
Tôi nghĩ đến chiếc vòng đáng yêu, gần như lại cảm giác được nó tuột khỏi bàn tay mình và nghe thấy được giọng của Richard de Mornay vang lên, “Cô nên mua chiếc vòng tay ấy”, trong khi anh ta nắm cổ tay tôi ở khu chợ. Cổ tay của Mariana. Tôi áp một bàn tay lên trán và nhắm mắt lại.
“Không”, tôi nói, “không có gì quan trọng cả”. Nhưng tôi có thể nghe thấy sự tiếc nuối trong chính giọng nói của mình và tự hỏi không biết Tommy có nghe thấy không.
“Thật may vì em đã ăn mặc như vậy khi chuyện đó xảy ra”, anh bình luận lúc nhìn chiếc áo, quần jean ẩm ướt và nhăn nhúm của tôi. “Nếu em mà mặc váy ngủ và đi dép lê lang thang ngoài đường thì chuyện còn kinh dị hơn nhiều.”
Tôi mỉm cười. “Em chắc chắn mình đã ăn mặc tử tế rồi chứ. Nếu không, em sẽ không cho phép mình chạm vào tay nắm cửa, thế thôi.”
“Anh không dám chắc mình có thể hiểu kịp.”
“Em đã lên kế hoạch rồi, Tommy”, tôi nói, không thể ngăn chút tự hào thoát ra từ giọng nói. “Anh thấy đấy, nó gần như một kiểu thử nghiệm. Em muốn biết có thể tự mình quay về quá khứ, với thời gian và địa điểm theo sự lựa chọn của e hay không.”
“Và?”
“Và rõ ràng rất hiệu quả, dù không diễn ra chính xác theo cách em mong muốn. Em đã nghĩ đến chuyện ngăn quá khứ quay lại trong căn nhà này.”
Tom liếc qua vai về phía cánh cửa bếp đang khép hờ, mặc làn hơi ẩm tươi mới của một buổi sáng muộn thứ Năm tràn vào.
“Và Mariana đã mở cửa”, anh đoán. “Anh hiểu rồi. Chắc chắn không thể cùng loại khóa sử dụng vào thế kỷ XVII được.”
Tôi tò mò nhìn chiếc then cài nặng nề. “Không, nhưng nó ở cùng một chỗ và thiết kế cũng tương tự nhau. Hãy nhìn mà xem, anh chỉ phải kéo nó lên và cánh cửa bật mở.”
“Anh hiểu rồi.” Anh nhăn mày. “Đó là một cái khóa cổ. Không có mấy tính bảo vệ. Cái em cần là một cái khóa chết. Thực tế, chúng ta cần mua luôn một đôi vào chiều nay và anh sẽ tự lắp chúng cho em.”
“Anh nói giống hệt người chuyển đồ giúp em ấy”, tôi bảo anh, mũi nhăn lại. “Ông ta cũng bảo em cần phải thay những chiếc khóa mới.”
“Người đàn ông khôn ngoan.”
“Anh đừng lo lắng quá, Tom à. Quanh đây chẳng ai khóa cửa nhà cả, nơi này rất an toàn. Bên cạnh đấy, nếu em lại quay trở về quá khứ và cố mở cửa khi nó bị khóa thì sao? Em có thể sẽ khiến bản thân bị thương.”
“Anh chẳng thấy làm sao cả. Lúc ấy cảnh hồi tưởng sẽ bị ngăn lại, anh nghĩ vậy đấy. Mariana, trong quá khứ sẽ mở cửa và đi đến đâu đó, nhưng em sẽ bị mắc lại phía sau.” Anh lại nhìn bộ dạng ướt nhẹp thảm thương của tôi, rồi thắc mắc. “Dù sao thì sáng nay cô ấy đã mang em đi đâu vậy?”
Tôi uống nốt chỗ rượu và dằn chiếc ly thủy tinh xuống bàn. “Đi theo em”, tôi vừa nói vừa đứng dậy. “Em sẽ chỉ cho anh thấy.”
“Giờ là gì nữa nào?” Tom ném ánh mắt hoảng hốt qua cửa sổ bếp. “Trong thời tiết này á?”
Trời lại mưa rả rích, tôi có thể nghe thấy tiếng nước chảy ồng ộc qua ống thoát nước từ máng hứng mưa trên đầu, tạo thành một vũng nước lầy lội ngay bên ngoài cửa hậu.
“Em nghĩ có lẽ chúng ta nên dùng ô tô”, tôi giải thích, với sự nhẫn nại cường điệu. “Em vừa có buổi đi dạo trong mưa sáng nay.” Tôi chìa vạt áo sơ mi đẫm nước như một bằng chứng.
Tom mỉm cười. “Phải rồi. Anh xin lỗi, anh không nghĩ ra. Nhưng trước hết em sẽ đi thay quần áo chứ?”
“Em thấy như thế sẽ tốt hơn.” Tôi nhìn xuống bản thân. “Chờ em nhé, không đến một phút đâu.”
Song thực tế, tôi mất không đầy năm phút để đổi một chiếc quần jean khô ráo và chiếc áo chui màu đỏ tươi, choàng lên mình chiếc áo mũ đi mưa, rồi đi vào chuồng ngựa kiêm nhà để xe với anh trai.
“Chúng ta sẽ đi hướng nào đây?” Tom hỏi và chui vào chiếc xe để cài số lùi.
“Rẽ trái ở cuối lối vào nhà, rồi chọn nhánh đường bên phải khi chúng ta băng qua sông.”
Tom im lặng tuân theo sự chỉ dẫn của tôi, vọt chiếc xe Ford thể thao qua chiếc cầu nhỏ và rẽ khỏi trục đường chính để men theo tuyến đường hẹp và ít người qua lại.
“Đường Marlborough cũ”, anh đọc biển chỉ dẫn. “Đây là đường em đã đi?”
Tôi gật đầu. “Em nghĩ thế.”
Trong vài phút tiếp theo, tôi đã có thể chắc chắn, khi những hàng cây thưa dần và vạt rừng rì rào xanh mướt của khu săn bắn Wexley trôi dần sang bên trái. Con đường rải đá được cơn mưa gột rửa - nếu có đi bộ theo lối này, tôi cũng không để lại dấu vết nào cả - nhưng phong cảnh đồng quê rực rỡ vẫn nung thành một dấu vết sâu sắc trong ký ức của tôi.
Trong một giờ hay có thể nói kể từ lần cuối tôi nhìn thấy, nó đã đổi khác rất nhiều. Những ngôi nhà hiện đại mọc san sát con đường và trên cánh đồng, nơi đàn cừu từng chạy loanh quanh. Những chỗ trống trước đây giờ được lấp đầy cây, thay vào mảng rừng cũ là một mảnh đất bằng. Tuy vậy, con đường vẫn thân quen như những con phố từ thời thơ ấu của tôi vậy. Khi lái xe lên ngọn đồi và bắt đầu xuôi xuống khu Wexley, tôi không thể thôi ngăn lại chút run rẩy vì cái cảm giác thân quen ấy.
Đây là một thị trấn nhỏ đơn sơ. Vây quanh khu chợ hình vuông chỉ là một cụm hàng quán có tường bằng khung gỗ được sửa chữa lại mặt ngoài, ganh đua với các tòa nhà hiện đại thực dụng xấu xí và các ngôi nhà xây từ gạch đỏ từ thời Victoria. Giống như nhiều thị trấn ở Anh khác, nó là tổ hợp kỳ dị của nhiều kiểu kiến trúc và thị hiếu khác nhau, dần dần hòa nhập với truyền thống, và cuối cùng, thành quả là một sự sắp xếp tương đối thoải mái.
Khu chợ từ thời Trung Cổ phía trước, theo như tôi nhớ, nằm ở trung tâm của quảng trường, đã biến mất. Có lẽ nó là nạn nhân của một vụ hỏa hoạn, của sự phát triển hoặc đơn giản bị lụi tàn và chia cắt bởi thời gian. Đứng ở vị trí của nó giờ đây là bức tượng một người đàn ông nghiêm nghị mặc quần áo thời Nhiếp chính, không nghi ngờ là một trong số các cha cố điềm đạm của thị trấn này từ thế kỷ trước.
Tommy đỗ xe vào bóng râm của bức tượng và quay sang nhìn tôi.
“Cuộc đi bộ được đấy”, anh bình luận. “Gần bốn dặm. Chắc hẳn em phải mất gần một giờ cho mỗi lượt đi.”
“Em cũng nghĩ thế. Đương nhiên đoạn đường có vẻ cũng không xa lắm, vì em có người đi cùng.”
“Kiểu đi cùng thế nào đấy?”
“Rachel.”
“Ai?”
“Rachel”, tôi lặp lại, trước khi kịp nhận ra, dù tất cả những người sống ở kiếp trước có thân thuộc thế nào với tôi đi chăng nữa, họ chẳng có ý nghĩa gì với Tom cả. Họ là những người lạ từ một vùng đất xa lạ, không đi kèm với thực thể hay mang bất cứ ý nghĩa nào.
Thế nên tôi tiếp tục kể với anh trai những gì tôi biết về Đàn Cừu Xám - nó từng thuộc về ông ngoại của Mariana, sau đó được người con trai cả thừa kế, Jabez Howard cứng rắn và tẻ ngắt. Tôi kể với anh về bác Caroline có đôi mắt trống rỗng, và Rachel, người đã sống cùng chị gái và anh rể từ khi hai người kết hôn. Tôi cũng kể lướt về những người cư ngụ trong tòa trang viên, nhưng lúc đó Tom không mấy lưu tâm. Anh thích thú với hành trình đến khu chợ vào sáng nay của tôi hơn.
“Vậy là em cùng Rachel đã đến quảng trường này”, anh nói, “và... sau đó thì sao? Em đã làm gì?”.
“Bọn em đứng ở kia”, tôi phẩy tay về phía quầy báo ở tít một bên của bức tượng, “xem một vở kịch, rồi cả hai tách ra và em đi lòng vòng quanh đây, nếu anh hiểu ý em là gì. Ngừng lại để xem vài quầy hàng, nhưng hầu hết em chỉ đi loanh quanh. Cuối cùng em đứng ở cái ngõ kia, giữa quán trà và ngân hàng”.
Gần như không còn là một con ngõ nữa, tôi tự sửa lại. Nó đã được mở rộng thành làn đường đủ cho xe ô tô đi vào, dù vẫn nằm trên phần đường hẹp và lớp sỏi trước đây đã bị chôn vùi dưới mặt đường màu đen trơn nhẵn.
Tom nhìn theo.
“Em đã làm gì ở đó?”
“Em vỗ về một con ngựa.”
“Và rồi em rời đi?”
“Vâng. Rachel đến tìm em và bọn em trở về nhà, theo đúng con đường đã đến.”
“Anh hiểu rồi.”
Tôi nhìn anh ngờ vực. “Anh không cho rằng em đang say rượu đấy chứ?”
“Không đâu! Anh chưa bao giờ bảo...”
“Ôi, bỏ đi.”, tôi bảo anh, giơ bàn tay mệt mỏi lên bóp đầu. “Em xin lỗi. Không phải tại anh đâu, Tom. Chỉ là... Em không biết nữa, mọi thứ dường như thật đến chết tiệt khi nó thực sự xảy ra, rồi lúc kết thúc, em cảm thấy thật... mất phương hướng. Như thể tất cả đều xảy ra trong mơ, em không biết rằng...”
Giọng tôi trở nên cực kỳ khổ sở, Tom cho tôi cái trừng mắt cứng rắn của bậc làm anh trước khi đẩy cánh cửa bên ghế lái bật mở.
“Hừm”, anh tươi tỉnh nói, “có một cách để kiểm chứng xem em có thật sự ở đây sáng nay không đấy”.
“Bằng cách nào?”
Nụ cười kẻ cả của anh vụt hiện lên. “Cưng à, em đã loanh quanh khắp khu này trong cơn mưa như trút. Chắc chắn phải có ai đó chú ý đến em rồi.”
“Nhưng các cửa hàng vẫn chưa mở cửa.”
“Anh cược ít nhất một trong số chúng đã mở cửa rồi”, là câu trả lời quả quyết của anh trai tôi. Tôi nhìn anh băng qua quảng trường rồi biến mất vào trong cửa hàng sách báo. Khi xuất hiện mười phút sau đó, anh cầm theo hai chiếc cốc giấy và trông tự mãn một cách khủng khiếp.
“Cà phê chứ?” anh vừa mời vừa đưa cho tôi một cốc khi chui vào ghế lái và kéo chiếc cửa đóng lại sau lưng. Trời vẫn mưa lất phất, kéo theo cả sự ẩm ướt theo vào với anh, những giọt nước lóng lánh đọng trên mái tóc đen cùng chiếc áo khoác màu xanh thẫm.
“Em không thể uống thứ này được”, tôi phàn nàn, khi nhìn xuống chiếc cốc trong tay. “Nó không phải cà phê thực thụ đâu Tom.”
“Tùy em.” Anh hớp một ngụm lớn từ cốc của mình trước khi nói tiếp. “Tình cờ em đã có mặt ở đây sáng nay. Người phụ nữ trong cửa hàng đã nhìn thấy em. Ít nhất chị ta đã trông thấy một cô gái nhỏ nhắn mặc bộ đồ đen với mái tóc quăn ngắn, đứng trong quảng trường vào khoảng bảy giờ ba mươi phút. Đầu tiên chị ta cứ nghĩ em đang nhìn qua cửa sổ quán nhà chị ta, nhưng khi chị ta đi ra để nói chuyện với em, thì em lại đi mất. Chị ta đã nhìn thấy em vài lần, đi bộ quanh quảng trường. Cho rằng em đang đợi ai đó đến đón mình.”
“Anh làm thế nào mà khiến chị ta kể hết những chuyện này cho anh vậy?” Tôi nhã nhặn hỏi. “Em có cần phải biết không?”
“Không có gì.” Tom nhún vai. “Anh bảo mình là bác sĩ ở bệnh viện tâm thần, bọn anh đang bị lạc mất một bệnh nhân. Chị ta rõ ràng rất lấy làm thông cảm.”
“Tom!” Tôi choáng váng. “Anh đùa chắc! Anh thừa biết đây là một cộng đồng nhỏ - rồi tin tức này sẽ lan ra mất thôi. Sau này sao em dám bước chân ra khỏi nhà nữa!”
“Vẫn quá đơn giản mà, em yêu.” Anh cười ra vẻ khoan dung. “Ý anh là để giải thoát cho em. Em có thể bình tĩnh được rồi đấy, anh chỉ bảo chị ta là anh có hẹn với em ở đây sớm hơn, nhưng vì xe của anh gặp trục trặc nên anh đến muộn. Anh hỏi chị ta có nhìn thấy em không, thì chị ta bảo có, rồi anh giả vờ hối lỗi vô hạn và mua cà phê thôi. Chị ta chắc chắn đã nghĩ em chờ anh mệt quá nên quyết định đi về và giờ anh đang tìm cách để cố gắng xoa dịu em. Được chưa?”
“Rồi.”
“Tốt. Thế thì cúi đầu em xuống thấp một chút khi chúng ta lái xe qua đó nhé? Anh không muốn người phụ nữ kia nghĩ anh vừa là tay sát gái vừa là tên đàn ông vô tâm đã bỏ mặc bạn gái của mình trong mưa đâu.”
Tôi ngoan ngoãn cúi thấp đầu, chúng tôi lái xe vòng qua tượng đài của khu chợ, hướng trở lại đường Marlborough Cũ để quay lại Exbury.
“Thế”, tôi nói, giờ đã ngồi thẳng dậy khi đến được khu vực an toàn, “anh muốn làm gì trong phần còn lại chuyến thăm viếng nào? Tất cả câu chuyện cường điệu này hẳn buồn chán kinh khủng với anh”.
“Ngược lại là khác, anh chưa bao giờ kích động thế này suốt bao năm trời.” Tom cười nhăn nhở. “Nhưng anh phải thừa nhận các kế hoạch của mình cho ngày hôm nay thì trần tục hơn nhiều. Anh cứ tưởng chúng ta sẽ dùng bữa trưa ở quán rượu của...”
“Gì cơ, quán Sư Tử Đỏ á?”
Anh gật đầu. “Anh nghĩ đây là lúc mình nên gặp gỡ những người bạn mới của em. Nếu không có gì khác thì đó là vì lòng hiếu kỳ. Sau khi lắp mấy ổ khóa mới lên cửa nhà em, anh nghĩ mình có thể đưa em đến Swindon trong phần còn lại của ngày hôm nay. Chúng ta sẽ ngó nghiêng các cửa hàng, nếu em muốn, dùng bữa tối thịnh soạn ở đâu đó, thậm chí có thể đi xem phim sau đó nữa. Có nhớ vụ đi xem phim không?”
“Em không.”
“Anh cũng vậy”, anh thở dài. “Thế em thấy thế nào?”
“Nghe có vẻ tuyệt lắm”, tôi thừa nhận.
“Tốt. Vậy chúng ta cứ tiến hành thôi.”
Mất một khoảng thời gian chúng tôi cứ lái xe trong im lặng, rồi Tom đột ngột nhíu mày và nhìn tôi.
“Julia, anh ghĩ thế này.”
“Vâng?”
“Những chuyện từ kiếp trước ấy. Anh nghĩ em không nên tốn thời gian để cố gắng khiến mọi chuyện xảy ra nữa.”
Tôi tròn mắt nhìn anh. “Nhưng tuần trước anh đã nói...”
“Anh biết. Nhưng đấy là trước khi anh tận mắt... chứng kiến. Chứng kiến tình trạng của em khi việc đó diễn ra. Giờ đã nhìn thấy, nên anh đổi ý. Cứ dành ra một phút ngẫm mà xem”, anh khẩn cầu tôi. “Em có thể bị xe đâm trên đường, hay gì đó. Và có khi chính quá khứ cũng đầy nguy hiểm. Làm sao em biết cái cô Mariana đó không treo cổ tự vẫn, trầm mình xuống sông, hoặc nhảy khỏi vách đá?”
“Quanh Exbury có vách đá nào đâu.”
“Em biết ý anh là gì. Chúng ta đơn giản vẫn chưa đủ hiểu biết về các hiện tượng siêu nhiên, anh nghĩ sẽ không an toàn nếu để em cố gắng thực hiện thử nghiệm đó, thế thôi. Đôi khi chỉ riêng việc chúng tự động phát sinh thôi cũng đủ tệ lắm rồi.”
Tôi quay đầu ra ngoài cửa sổ nhìn phong cảnh trôi qua vùn vụt trước mắt, không trả lời anh, Tom tiếp tục nói với giọng thận trọng. “Julia à? Anh muốn em hứa sẽ không thử làm bất cứ chuyện gì như thế này nữa cho đến khi chúng ta có thêm manh mối về chuyện đang diễn ra. Em sẽ hứa với anh chứ?”
Bên kia những khu đồi sũng nước mưa của khu săn bắn Wexley, một bầy chim đập cánh bay lên như một đám mây ồn ào đang chuyển động, lượn vòng thành một đội hình chặt khít trên những cánh đồng lấm chấm xanh mướt mềm mại. Tôi quay khỏi cửa sổ và mỉm cười ngọt ngào với anh trai.