Với những ngón tay hơi run rẩy, tôi nhấc chiếc vòng khỏi ngăn kéo nông, nơi nó đã nằm ẩn mình trong... bao lâu? Hàng thế kỷ chăng? Nó đúng là chiếc vòng tay ấy, tôi biết điều đó với sự chắc chắn vượt qua logic thông thường. Nhìn thấy nó, cảm nhận nó, sức nặng trên lòng bàn tay quá đỗi thân quen, không cần thắc mắc cũng biết chiếc vòng này đã từng thuộc về tôi.
Nhưng làm thế nào nó lại ở trong chiếc bàn gấp này - nếu nhãn hiệu của người sáng chế đáng tin - chiếc bàn này thậm chí không được tạo ra cho đến giữa thế kỷ XVIII, khoảng hơn bảy mươi năm sau khi Mariana Farr đến Exbury? Vẫn siết chặt chiếc vòng tay, tôi đậy nắp chiếc bàn gấp lại và nhíu mày nhìn chữ H trên biển tên. Liệu có khả năng nào chữ H này là viết tắt của “Howard” không? Liệu có khi nào chiếc hộp nhỏ đơn giản này từng thuộc về một thành viên của gia đình Howard ở Đàn Cừu Xám?
Tôi lắc đầu, hoang mang. Tất cả dường như đều quái dị một cách khó tin, nằm ngoài phạm vi của những điều hợp lý. Quá nhiều trùng hợp ngẫu nhiên để có thể trở thành hiện thực, tôi ngẫm nghĩ. Hay... đúng thế? Tôi lăn chiếc vòng qua những ngón tay như gẩy chuỗi tràng hạt, và những chú chim thiên đường dường như đang nháy mắt với tôi khi đôi mắt thủy tinh của chúng hứng lấy tia nắng. Có lẽ, tôi suy đoán, chỉ có lẽ thôi, nếu quả thật tất cả mọi chuyện đang diễn ra đều có nguyên do và nếu thực sự có một sức mạnh siêu nhiên kéo chúng tôi đến với định mệnh hay số phận này, vậy thì phát hiện ra chiếc vòng tay này, sau cùng cũng không hẳn là ngẫu nhiên. Có lẽ, thực tế, đây là cần thiết...
Tiếng gõ cửa khẩn trương, rõ ràng vang lên trên cửa sau khiến tôi giật nảy khỏi những trầm tư. Tôi nhét vội chiếc vòng tay trở vào bàn gấp trước khi đáp lời. Tâm trí tôi vẫn chưa hoàn toàn rời bỏ mạch suy nghĩ và sự khó chịu vì bị quấy rầy hẳn đã hiển hiện trên khuôn mặt lúc tôi mở cửa để đối diện với người đàn ông đứng trên bậc thềm bên ngoài.
Iain Sumner đứng lấp đầy khung cửa, chặn lại phần lớn ánh nắng, biểu cảm của anh ta đầy vẻ buộc tội.
“Cô đã làm cỏ”, anh ta thẳng thừng nói, “đúng không?”.
Anh ta rõ ràng đang chuẩn bị cho một trong những bài diễn thuyết đầy năng lượng mà Vivien đã cảnh báo tôi, nhưng tôi được cứu vào giây cuối cùng nhờ một sự kiện khá lạ thường, lần thứ hai trong những tuần qua, tôi bật khóc.
Lần này tôi thừa nhận, không được ngoạn mục như cái lần bột phát trước trong ngôi nhà của Tom ở Hampshire, tuy vậy đôi mắt tôi cũng trở nên mơ hồ và miệng khẽ run rẩy. Iain đột ngột ngừng nhíu mày để nhìn tôi chằm chằm với vẻ hối lỗi đầy lo lắng. Cũng gần đến mức tức cười khi chứng kiến một người đàn ông Scotland điềm tĩnh hoàn toàn đứng hình và tôi không thể ngăn đôi môi khỏi cong lên thành một nụ cười.
“Tôi xin lỗi”, tôi vừa nói vừa lau nước mắt, “không phải tại anh. Chỉ là...”. Tôi ngập ngừng, tìm cách giải thích, trước khi quyết định đơn giản là chẳng có cách nào dễ dàng để thanh minh cho tình trạng xúc động quá mức của bản thân. “Dù sao đi nữa”, tôi hít vào, “phải, tôi đã nhổ cỏ trong vườn nhà anh. Có phải tôi đã bày bừa thành một đống rồi không?”.
Iain lẳng lặng nhìn xuống nhánh cây héo rũ anh ta cầm trong tay, cân nhắc rồi dường như bỏ ý định ban đầu đi. Chuyển bàn tay ra sau lưng, anh ta để nhánh cây rơi xuống chân và nhìn thẳng vào mắt tôi.
“Không, không quá tệ đâu, thật đấy”, anh ta nói.
Anh ta là một kẻ nói dối duyên dáng và tôi đã bảo anh ta thế. Bật cười, anh ta nghiêng đầu sang một bên, thật thỏa mãn khi tôi đã lấy lại được vẻ điềm tĩnh, anh ta lên tiếng, “Để tôi bảo cô thế này. Nếu cô cứ nhất quyết muốn giúp đỡ tôi, sao cô không ra ngoài một lúc để tôi chỉ cho cô biết tất cả mọi thứ ra sao?”.
“Tôi tưởng anh không thích mọi người đi lung tung trong vườn của mình.”
“Đó là một lời đồn đáng sợ.” Anh ta mỉm cười. “Lại đây, sẽ không tốn nhiều thời gian đâu.”
Khi băng qua lối đi, theo sau anh ta, tôi cúi xuống nhặt cái cây xơ xác anh ta đã lịch thiệp vứt đi. “Đây không phải thứ gì đó từ Nam Mỹ đấy chứ?” Tôi thận trọng hỏi.
Anh ta nhìn tôi với đôi mắt thoáng hấp háy.
“Không phải”, anh ta khẳng định dứt khoát. “Nếu cô nhổ một trong số đám cây đó, dù có khóc hay không thì cô cũng phải nghe thuyết giảng rồi.”
Tôi nhận ra sau đó, đây chính xác là điều tôi cần - nửa giờ vật lộn trong đám bùn đất, cảm giác đất khô cứng, đầy bụi trên những đầu ngón tay và ngửi mùi hương hăng hăng ngọt ngào của hoa lá được mặt trời sưởi ấm. Tôi được an ủi, được cam đoan, và thêm lần nữa được sống trong thực tại. Iain thực sự đã chứng minh mình là một thầy giáo rất giỏi. Với sự cẩn thận và kỹ lưỡng, anh ta nhận dạng từng bông hoa và cây trồng trong vườn, chỉ ra những nụ hoa vô hình sẽ không nhìn thấy cho đến cuối hè. Anh ta bảo tôi những việc cần hoàn thành và hướng dẫn tôi làm những việc đó ra sao, cho nên khi anh ta kết thúc, tôi cảm giác khá tự tin vào khả năng của bản thân, ít nhất giờ có thể làm cỏ cho khu vườn mà không sợ gây thêm thiệt hại.
“Cô sẽ dần dần hiểu thôi”, anh ta hứa hẹn. “Chỉ cần luyện tập.”
“Anh có chắc sẽ không ngại không?” Tôi nhăn trán hoài nghi, anh ta hướng gương mặt điềm tĩnh về phía tôi.
“Cô không tin tôi sao?”
“Ừm, Vivien và Geoff hình như đều nghĩ tôi đang vướng vào loại mạo hiểm chết người...”
Anh ta cười nhăn nhở và vươn tay để ngắt một bông hoa héo khỏi nhánh diên vĩ gần đó. “Tôi không ngại”, anh ta nói. “Bên cạnh đó, thi thoảng ra ngoài này cũng có lợi với cô. Làm vườn sẽ giúp cô có thêm sức khỏe.” Anh ta kiểm tra đồng hồ đeo tay và đứng dậy, vươn vai. “Vậy tôi sẽ giao nó cho cô. Đến lúc tôi về nhà rồi.”
Bản thân tôi không nhận biết được thời gian, nhưng mặt trời đang nằm rất thấp trên bầu trời và hẳn cũng gần bảy giờ tối. Tôi đứng dậy cùng anh ta.
“Cảm ơn anh”, tôi nói. Thực sự tôi đang cảm ơn anh ta vì vô số điều. Vì không cáu giận với tôi, vì thông cảm cho tâm trạng của tôi, vì tốt bụng đến chết tiệt như thế...
Anh ta chỉ nhún vai và mỉm cười.
“Không thành vấn đề.”
Anh ta quay lưng bước đi và sải chân qua cánh đồng, trong khi tôi hướng mặt về phía mặt trời dần tàn, dựa lưng vào bức tường đá trơn nhẵn, đổ nát sau lưng, mơ màng khép hờ đôi mắt. Đây là một chiều hoàng hôn hoàn hảo, như trong cổ tích, ánh vàng đỏ với những đám mây bông xốp viền vàng tạo nên vẻ đẹp gần như ảo ảnh, như thể chúng thuộc về một trong những bức tranh minh họa của tôi vậy. Để hoàn thiện bức tranh, tất cả những gì đang thiếu là người đàn ông cưỡi ngựa dưới tán sồi, một kỵ sĩ lãng mạn trên lưng con ngựa chiến cao quý của anh ta, theo dõi lũ rồng từ những ngọn đồi phía xa. Tôi quay đầu lại để nhìn về phía cây sồi với đôi mắt gần như trông mong, nhưng không có gì ở đó.
Phía trên cây sồi, một con diều hâu bay là là thành một vòng tròn vô định, tiếng kêu của nó vang lên đầy cô đơn não nề.
Nhiều ngày đã trôi qua, nhanh chóng và lặng lẽ, tôi chuyên tâm vào những bức tranh minh họa với sự cần mẫn hoàn toàn xa lạ với tính cách của chính mình. Tôi biết mình đang trì hoãn. Lạ lùng là phát hiện ra mình có năng lực tự dịch chuyển bản thân về thế kỷ XVII theo ý thích càng khiến tôi chần chừ thực hiện việc đó. Suốt tuần ấy, trong khi vẽ phác thảo, tô màu và tiếp tục những công việc thường nhật, từ trong thâm tâm, tôi thầm hy vọng điều gì đó sẽ chỉ xảy ra theo một cách tự phát và dễ chịu, để tôi khỏi phải bận tâm với những điều diễn ra tiếp sau.
Nhưng đương nhiên, chẳng có chuyện gì xảy ra, dù đến cuối tuần tôi hoàn toàn bị bao vây bởi màu nước trong nhiều giai đoạn làm khô khác nhau, điều khiến tôi có cảm giác - nếu không còn gì khác - là một thành tựu kinh khủng. Thứ Sáu, Geoff gọi điện báo tin một tuần công tác phía bắc của anh ta đã bị kéo dài thành hai tuần và hỏi liệu tôi có phiền nếu phải chờ bữa tối kia thêm một chút hay không? Tôi đã đáp là không ngại.
Thẳng thắn mà nói, bữa ăn tối đó là điều xa vời nhất trong tâm tưởng tôi ngay lúc này. Mối bận tâm với công việc, như mọi khi, đã khiến các thói quen của tôi mang hơi hướng tự kỷ. Trong vài ngày qua, tôi cứ ngủ, làm việc và không gặp một ai, dùng đồ ăn đóng hộp trừ bữa và bò lên giường vào một, hai giờ sáng. Khi Vivien gọi nhanh cho tôi một cú điện thoại trước bữa trưa ngày thứ Ba tuần tiếp theo, cô ấy không nhịn nổi mà bình luận về cái giọng khản đặc của tôi. Lời giải thích tôi đưa ra - rằng tôi không mở miệng nói chuyện trong ba ngày nay - chỉ khiến cô ấy càng thêm lo lắng.
“Cô thậm chí không tự mình lẩm bẩm sao?” Cô ấy muốn biết.
“Không.” Tôi mỉm cười trước ống nghe. “Tôi có một người chị họ có thói quen như vậy, tôi không thích bị gộp chung với chị ấy, dù sao cũng cảm ơn cô.”
“Tôi hiểu. Vậy cô có muốn ra ngoài một chút vào chiều nay không? Hay giờ các phát kiến đang dạt dào mất rồi?”
“Ôi, đương nhiên tôi có thể bị thuyết phục để dứt bản thân ra ngoài vài giờ rồi”, tôi nói. “Cô có ý tưởng gì rồi nào?”
“Dùng trà ở lâu đài Crofton.”
Tôi nhăn mày. “Chắc chắn Geoff vẫn chưa trở về, phải không?”
“Ừ anh ấy vẫn còn ở trên mạn bắc. Thực sự thì lời mời đến từ dì Freda nhà tôi. Dì ấy tìm tôi suốt mấy ngày nay để đưa cô đến đấy nói chuyện, nhưng tận hôm nay tôi mới có thời gian. Ned bị cúm nên nghỉ ốm.”
Vậy là Phù Thủy Trắng của Exbury đã mời tôi đến uống trà. Viễn cảnh ấy nghe thú vị ra trò.
“Tôi sẽ đến”, tôi nói.
“Tuyệt vời. Ba giờ, được không? Cô có thể đi luôn từ bây giờ nếu muốn, tiện thể cho tôi đi nhờ luôn nhé.”
“Được. Tôi có nên mang theo thứ gì không?”
“Mang người là được rồi. Và cảm giác thèm ăn”, cô ấy khuyên. “Những bữa tiệc trà của dì Freda có thể phục vụ cho một gia đình bốn thành viên chuyên làm việc nặng và chúng ta được kỳ vọng sẽ ăn hết những thứ được bưng ra.”
Ba giờ chiều hôm đó, tôi rất vui vì đã nghe theo lời khuyên của Vivien và bỏ bữa trưa, khi rền rĩ dưới sức nặng của những chồng đĩa bánh ngọt, sandwich, nước sốt chua và bánh thịt hun khói nguội.
“Cháu không cần phải ăn tất cả thế đâu, cô bé”, bà Hutherson quả quyết với tôi. Bà châm thêm nước sôi vào ấm trà và ngồi xuống đối diện với tôi. “Không cần quan tâm đến những gì Vivien nói với cháu, ta không khó tính đến vậy đâu.”
Chúng tôi đang ngồi trong bếp của lâu đài Crofton. Đây không phải căn bếp đồ sộ và vang vọng tôi thấy trong chuyến tham quan tòa nhà chính, mà là một căn phòng nhỏ hơn, tiện dụng hơn trong mạn nhà riêng phía bắc, với sàn nhà bằng gỗ thông sạch sẽ, rèm đăng ten và thực vật mọc tràn khỏi mọi bệ cửa sổ. Alfreda Hutherson rõ ràng dành phần lớn thời gian trong căn bếp này và căn phòng cũng hấp thu rất nhiều sinh lực của bà, tản ra hơi ấm, thân thiện và thoải mái.
Tôi thấy bà rất quyến rũ - một người phụ nữ dong dỏng cao trong chiếc váy màu đen giản dị, với đôi mắt cười xanh biếc quá giống Vivien đến mức tôi tự hỏi làm sao mình có thể bỏ qua nét tương đồng này trước đây. Bà di chuyển với nét quý phái, hoàn toàn là từ sự duyên dáng bẩm sinh, dẫu mái tóc bà gần như trắng xóa, tôi vẫn thấy thật khó mà đoán ra tuổi của bà. Giống như người cháu, bà có tài bắt chuyện tuyệt vời, thông minh và đầy học thức, với sự hóm hỉnh đơn giản mà kín đáo đã biểu lộ hết lần nay sang lần khác.
“Ta phải nói”, giờ bà lên tiếng, đẩy đĩa sandwich vòng quanh lần thứ ba, “thật tốt khi có thêm người trong căn nhà này. Ta lúc nào cũng có cảm giác ăn không ngồi rồi mỗi khi Geoffey đi vắng”.
“Thay vào đó, tuần này dì đã nhồi nhét cho Ian - anh ấy bảo cháu thế”, Vivien tố cáo. “Anh ấy sẽ tăng cân mất thôi.”
“Thằng bé làm việc vất vả mà”, dì cô giải thích. “Rồi nó sẽ lại giảm cân thôi. Với lại, nhìn ai đó biết thưởng thức đồ ăn ngon cũng tuyệt lắm.”
“Vậy là bác vẫn sống ở đây ạ?” Tôi lấy một miếng sandwich. “Trong tòa trang viên?”
Bà mỉm cười. “Ồ, không đâu. Ta có một ngôi nhà nhỏ trong làng. Ta chỉ làm công việc hàng ngày ở đây, lau chùi, trông nom các cô gái trẻ, trước khi về ta sẽ để bữa tối của Geoffey trong lò và cậu ta sẽ tự rửa bát. Một sắp xếp rất tự nhiên.”
“Nhà của dì Freda ngay phía bên kia tòa cha sở[1] cũ”, Vivien chen vào. “Đó cũng là nhà của bà ngoại tôi, khi bà còn sống. Ngôi nhà đá nhỏ với những khung cửa chớp màu xanh lá. Có phải điện thoại đang reo không?” Cô ấy đột ngột nghếch đầu lắng nghe. “Đúng rồi. Không, dì cứ ở yên đấy đi, để cháu nghe cho”, cô ấy bảo, đẩy chiếc ghế ra sau và mất hút vào hành lang dài mờ tối. Một lát sau, cô ấy quay lại và lắc đầu.
[1] Cha sở là chức vụ trong một giáo xứ, do đức giám mục địa phương hay đấng bản quyền sở tại sai phái.
“Có chuyện rồi”, cô ấy tuyên bố. “Đấy là Ned. Các ống dẫn bia có vẻ không chịu hoạt động, sắp hết đồ uống phục vụ cho mọi người ở đấy rồi. Tốt hơn hết cháu nên chạy ra đó và xem có thể làm được gì không. Cháu sẽ quay lại ngay khi xong việc.”
“Không cần vội đâu, cháu yêu”, Alfreda Hutherson vừa nháy mắt vừa bảo. “Vẫn còn rất nhiều đồ ăn. Chúng ta sẽ để phần vài cái bánh quy cho cháu.”
Vivien bật cười. “Cháu cược dì sẽ làm thế mà.”
Cánh cửa đóng lại sau lưng cô và người phụ nữ ngồi chéo với tôi nâng tách trà của mình lên, đôi mắt bà đột nhiên trở nên tư lự khi nhìn tôi qua vành tách.
“Cháu trông mệt mỏi quá”, bất ngờ bà lên tiếng. “Hết thảy trở nên quá sức với cháu rồi phải không?”
Tôi ngập ngừng một phút trước khi trả lời, không chắc nên diễn giải câu hỏi ra sao và vật lộn với chính câu hỏi của bản thân. Tôi do dự đón ánh mắt của bà và bà mỉm cười, đặt tách trà xuống đĩa.
“Cháu muốn hỏi ta có biết, biết những gì và làm sao ta biết, phải không?” Bà điềm tĩnh nói, “Nhưng cháu sợ ta sẽ nghĩ cháu bị điên nếu cháu nói điều đó ra trước. Nên hãy để ta giúp cháu. Phải, ta có biết. Ta biết rất rõ những gì đang xảy đến với cháu từ khi cháu chuyển đến đây. Thực tế, ta khá lo lắng cho cháu”. Bà thẳng thắn nói. “Đó là lý do tại sao ta nhờ Vivien đưa cháu đến đây gặp ta. Ta muốn tự mình nhìn xem cháu thế nào.”
Sau bài diễn văn phi thường đó, bà lại nâng tách trà lên lần nữa và chờ đợi phản ứng của tôi. Bà không phải đợi lâu. Trước đó, tôi đã giật bắn mình ngồi thẳng dậy trên ghế, nhìn chằm chằm, nhưng giờ tôi chớp mắt với bà và mỉm cười, nhướn hai mày lên.
“Họ bảo bác là phù thủy.”
Bà bật cười, nhưng không phủ nhận. Bà rót cho tôi một tách trà mới và ngả lưng ra sau, khoanh tay chờ đợi. “Cháu có thắc mắc.”
“Rất nhiều thắc mắc”, tôi thừa nhận. “Nhưng cháu không hoàn toàn chắc mình có muốn biết những câu trả lời không.”
Bà chỉ gật đầu một cái, nhưng rất quan trọng. “Mà cháu cũng không nên làm thế. Đây là hành trình do cháu khởi đầu, Julia ạ, không ai có thể chỉ dẫn cho cháu. Cháu phải tự tìm hướng đi cho mình.”
“Nhưng chắc chắn bác có thể...”
“Phải, ta có thể tiết lộ với cháu vài điều. Nhưng sự can thiệp của ta có thể trở thành lực cản thay vì giúp đỡ cho cháu.”
“Đừng tiu nghỉu quá thế, cô bé”, bà nói. “Cháu có thể tiến xa đến chừng này mà không cần đến ta và cháu đã làm rất tốt. Cháu biết điều gì đó về Mariana và cháu đã chấp nhận cái thực tế mà rất nhiều người không có khả năng hoặc không nguyện ý chấp nhận. Quan trọng hơn hết, ta nghĩ cháu dần bắt đầu hiểu được mình nắm quyền kiểm soát trong tình huống này nhiều hơn cháu tưởng, không phải sao?”
Tôi gật đầu.
“Vậy thì tốt.” Bà xòe hai bàn tay bày tỏ thái độ. “Có lẽ tự cháu đang thực hiện rất tốt. Cháu phải kiên nhẫn, Julia ạ, và tin tưởng vào quá trình này. Bao giờ đến lúc, cháu tự khắc sẽ có được những câu trả lời của mình, mà không cần đến sự giúp đỡ từ ta đâu.”
“Cuối tuần trước cháu mua được một thứ”, tôi nói, vạch ngón tay dọc theo vành chiếc tách. “Một loại hộp.”
“Một chiếc bàn gấp. Phải.”
Tôi ngẩng đầu lên. “Nó được khắc chữ H.”
Bà nghiêng đầu, giống như một chú chim và nhìn tôi chăm chú. “Chữ H, đương nhiên là viết tắt của họ Howard. Cháu cũng biết điều đó, phải không?”
“Dạ phải. Nhưng...”
“Là người nào? Hừm, ta không nghĩ sẽ gây hại bao nhiêu nếu nói với cháu điều đó.” Đôi mắt bà lướt khỏi tôi. “Chiếc bàn thuộc về John Howard.”
“John sao?” Tôi lật cái tên trong đầu. “John ư? Là con trai của bác Caroline, tên là John?” Tôi nghĩ đến đứa bé nhỏ xíu có gương mặt đỏ bừng, rồi đến chiếc vòng tay bạc màu được cất ngay ngắn trong ngăn kéo bí mật của chiếc bàn. “Nhưng làm sao cậu ta...?”
Bà ngăn tôi lại với một cái lắc đầu. “Bí ẩn đó dành cho cháu khám phá”, bà bảo tôi. “Và cháu sẽ tìm ra. Cháu có muốn dùng thêm một chiếc bánh nữa không?”
Bà đẩy chiếc đĩa về phía tôi và tôi nhặt một chiếc bánh quế sô cô la, cảm giác hơi bị mê hoặc một chút. Thật lạ, tôi nghĩ thầm, khi ngồi ở đây, trong một nhà bếp ấm cúng và hoàn toàn bình thường, để thảo luận chủ đề đầu thai với một phù thủy. Trong không khí thường nhật, giản dị và thông thường thế này, cuộc nói chuyện của chúng tôi dường như kỳ quái đến lạ lùng, giống như người ta đang bàn về thời trang giữa một đám tang vậy. Tuy vậy, tôi ở đây, lẳng lặng nhấm nháp chiếc bánh và ngồi cách không quá một mét với người phụ nữ có thể đọc ý nghĩ của mình một cách dễ dàng như đọc một tờ giấy in vậy. Giờ bà cũng đang đọc ý nghĩ của tôi và tôi có thể nói được điều ấy thông qua cái cách đôi mắt bà nhìn tôi...
“Thứ lỗi cho ta nếu làm cháu cảm thấy âu lo”, bà khẽ nói. “Ta biết những điều mà cháu không biết. Nhưng ta không phải một bà già thông thái. Ta từng chứng kiến thời điểm thuận lợi rồi nhìn nó trôi qua, nếu có điều gì khác ta không học được, thì ta hiểu rằng định mệnh đã tự lên sẵn một lịch trình từ chính sự hình thành của nó rồi.” Bà ngồi dựa lưng vào ghế và bình thản đối mặt với tôi. “Đúng hơn thì hết thảy giống như một vòng tròn”, bà tiếp tục, “sự sống là vậy. Cháu khởi đầu ở một nơi, chọn con đường của cháu, và khi kết thúc cháu mới phát hiện mình đang quay lại đúng điểm ban đầu. Đó cũng chính là những gì cháu đang làm bây giờ, với cuộc đời của Mariana. Khi đi hết con đường, khi khép lại vòng tuần hoàn, đấy cũng là lúc mục đích cuộc hành trình sẽ trở nên rõ ràng với cháu”.
“Và bác có hoàn toàn chắc chắn”, tôi hỏi bà, “rằng cháu là cô ấy... ý của cháu là, cô ấy... cái người tên Mariana Farr ấy và cháu là cùng một người không?”.
“Ồ, có chứ.” Đôi mắt bà thật dịu dàng. “Ta nhận ra cháu ngay lập tức.”
“Nhận ra cháu sao?”
“Trước đây ta đã từng gặp cháu”, bà giải thích. “Đương nhiên không phải là cháu của bây giờ, nhưng dù vậy vẫn đúng là cháu.”
“Và người phụ nữ trong phòng ngủ Kỵ sĩ trên tầng”, bà thêm vào. “Mariana thường lui tới cả hai nơi đó, trong một khoảng thời gian dài.”
Tôi nhíu mày. “Nhưng cháu tưởng bóng ma trên tầng vẫn còn ngụ lại ở đó. Chẳng phải để một linh hồn xuất hiện ở hai nơi cùng một lúc là không thể hay sao?”
Alfreda Hutherson kiên nhẫn lắc đầu. “Không có bóng ma nào trên tầng”, bà nói với tôi. “Không có thêm nữa. Những gì cháu cảm nhận ở trên đó đơn thuần chỉ là phần tản ra từ cái đã từng tồn tại. Cháu thấy đấy, thứ cô ấy để lại trong căn phòng cũng chỉ như một chiếc bóng người ta hắt lên tường mà thôi.”
Tôi lặng người trầm ngâm.
“Thi thoảng cháu nhìn thấy một người đàn ông”, tôi chậm rãi nói. “Một người đàn ông cưỡi con ngựa xám.”
“Richard.” Bà gật đầu. “Cậu ta cũng là một dạng hình bóng, khi cháu nhìn thấy cậu ta như vậy. Dưới cây sồi già, phải không nào? Đúng rồi, đấy là nơi cậu ta lưu lại khá lâu. Cũng là tự nhiên thôi khi phần nào đó ở cậu ta chần chừ không đi. Cháu phải hiểu rằng một phần trong ấy được phản chiếu từ chính tâm trí của cháu. Như khi cháu nhìn chằm chằm vào mặt trời quá lâu, cháu sẽ thấy nó ở khắp mọi nơi.”
Vậy hóa ra bản năng của tôi đều chính xác, tôi nghĩ thầm. Nếu Richard de Mornay không phải một hồn ma, vậy thì anh ấy, cũng giống Mariana, rất có thể đang sống mạnh khỏe ở Exbury. Thậm chí anh ấy có thể, tôi mặc định, đang sống trong lâu đài Crofton. Trước đây Tom đã từng nói với tôi thế nào? Những người chọn được sinh ra tại kiếp sống mới có khuynh hướng đặt mình giữa những người quen từ kiếp trước của họ. Bằng cách nào đó, tất cả chúng tôi đều được liên kết với nhau.Vivien, Iain, Geoff và tôi... thậm chí ngay cả...
“Bác và cháu đã từng gặp nhau bao giờ chưa?” Tôi hỏi bà Hutherson, đột nhiên lấy làm tò mò. “Ý cháu là trước kia ấy. Bác có phải là ai cháu từng quen biết không?”
Bà mỉm cười nhưng với tôi, nụ cười đó có vẻ nhuốm một chút buồn bã, đôi mắt bà tuy chạm vào mắt tôi nhưng lại như vượt qua cả chúng. “À”, bà nói, đưa ánh mắt hướng về phía cửa sổ, “tất cả chúng ta đều đã từng là một ai đó”. Bà nghiêng đầu sang một bên lắng nghe. “Đó là Vivien”, bà nói, với giọng dứt khoát. “Ta nghĩ tốt hơn hết nên đun thêm ấm nước để pha bình trà mới thôi.”
Bản thân tôi thì chẳng nghe được gì ngoài cơn gió và loáng thoáng tiếng chim hót líu lo, tôi không hề ngạc nhiên khi nhìn thấy Vivien đi qua khung cửa bếp một lát sau đó đúng lúc ấm đun reo vang báo hiệu nước sôi trên bếp lò.