Lối vào dãy phòng riêng của Vivien sau quán Sư Tử Đỏ vòng qua một trong những khu vườn đáng yêu nhất tôi từng thấy - kiểu vườn vẫn được in trong những tờ quảng bá du lịch mang tiêu đề “Khu vườn đồng quê Anh”. Hay ít nhất cũng trở thành kiểu vườn như thế vào mùa hè, khi hoa trong vườn nở rộ, thậm chí giờ đây, đang giữa tháng năm, khu vườn cũng đã như một mớ bòng bong tuyệt diệu, với những bông hoa li ti bám trên từng kẽ nứt của bức tường đá cũ kỹ bao quanh sân. Chân tôi giật lùi lại trong chốc lát, để bước lang thang trong nỗi thán phục lặng câm.
“Tôi đang lại gần sau cô này”, Iain Sumner thông báo từ cách đó vài thước. “Thế”, anh ta nói, khi dần tiến lại chỗ tôi, “đã ổn hơn chưa?”
Bật cười, tôi lắc đầu. “Tôi xin lỗi, nhưng chả ổn tí nào. Tôi vẫn nhảy dựng lên.”
“À, hừm”, anh ta thở dài, “chúng ta sẽ nghĩ ra cách nào đó. Tôi không muốn cô lên cơn đau tim đâu”.
“Xin chào!” Geoffrey de Mornay ngoặt qua góc ngôi nhà, trông thanh lịch lạ lùng trong chiếc quần jean và áo sơ mi giản dị. Lời chào của anh được gửi đến Iain, nhưng nụ cười, tôi ảo tưởng, là dành cho tôi.
“Sao cậu lại khiến cô ấy lên cơn đau tim?” Anh ta hỏi. Iain nhe răng cười.
“Vì tôi cứ di chuyển như một con mèo phải gió ấy.”
“Thứ lỗi cho tôi?”
“Anh ấy cứ rón rén theo tôi”, tôi giải thích.
Iain phật ý và nhướn cả đôi lông mày lên vờ phẫn nộ. “Một người Scotland”, anh ta tuyên bố với tôi, “không bao giờ rón rén”.
“Ừm, sao cũng được. Tôi chưa bao giờ nghe thấy tiếng anh ấy lại gần.”
Geoff nhíu mày. “Tôi nghĩ cậu có thể đổi sang một đôi bốt nặng hơn”, anh ta gợi ý, nhưng Iain lắc đầu.
“Sao đi nổi đôi nào nặng hơn nữa.”
Cả ba chúng tôi nhìn xuống đôi giày đầy bùn của Iain, vẻ mặt trầm ngâm, cho đến khi tiếng hắng giọng dần rõ ràng khiến đầu chúng tôi đồng loạt ngẩng lên.
“Chào.” Vivien mỉm cười rạng rỡ từ khung cửa ngó. “Cả ba người muốn vào trong, hay tôi nên ra đó với mọi người nào?”
“Chào, Viv.” Geoff cúi người để hôn lên má cô. “Cảm ơn vì đã mời anh.”
Anh lướt qua cô tiến vào trong nhà, Iain và tôi nối gót theo sau. Vivien vừa đóng cửa sau lưng vừa lắc đầu. “Cả ba đang làm trò gì thế?”
“Nhìn đôi bốt của anh”, Iain giải thích, đá bay mạo từ của câu hỏi và thong dong đi vào căn bếp nhỏ với bàn chân chỉ còn đôi tất. Anh ta cũng mặc quần jean và một chiếc áo sơ mi lao động, chiếc váy cùng áo len dài tay của tôi hẳn đã cho tôi cảm giác chưng diện thái quá nếu không tính đến thực tế Vivien cũng đang mặc váy, một chiếc váy xẻ màu xanh nước biển xinh xắn càng tôn lên mái tóc vàng hoe của cô ấy.
“Khu vườn nhà cô đáng yêu thật đấy”, tôi khen làm cô ấy mỉm cười.
“Cảm ơn, nhưng tôi không thể nhận hết công lao đâu. Phần lớn việc gieo trồng đều do Iain làm.”
“Còn khu vườn nhà ai anh ấy chưa đụng tay vào không?” Tôi muốn biết.
“Hầu như không”, Iain ngoái lại trả lời khi đang lục lọi tủ lạnh. “Tôi thích những khu vườn, ghét việc nhìn thấy chúng bị bỏ tan hoang.” Anh ta đứng thẳng với một chiếc bánh sandwich trong tay. “Tiện đây cũng từng có một khu vườn rất đẹp ở nhà cô. Eddie già để mặc nó mọc tràn lan. Không buồn bận tâm đến nó.”
“Khu vườn nơi Thiếu Phụ Xanh xuất hiện.”
“Đúng rồi”, Geoff lên tiếng lúc ngồi xuống một chiếc sô pha dài trong phòng khách thông với nhà bếp. “Cô đã kịp tìm tòi về các truyền thuyết trong vùng rồi hả?”
“Tôi thấy chúng rất hấp dẫn. Tôi chưa từng gặp ma trước đây.”
“Giờ cô cũng không nhất thiết phải gặp đâu”, anh ta chỉ ra. “Người ta chưa gặp Thiếu Phụ Xanh từ ngày tôi mặc quần đùi kìa. Trừ khi cô mới gặp cô ấy gần đây?”
“Không, tôi e là không.” Tôi lắc đầu, khi Vivien băng qua căn phòng từ khu vực nấu ăn để đưa một ly chất lỏng có màu hổ phách nhạt cho Geoff.
“Dẫu vậy, cô ấy đã tìm thấy các lá thư cũ được cất giấu”, cô ấy nói, “Anh có biết ai tên Mariana sống ở đây không?”
“Mariana…” Geoff nghiền ngẫm nhấp một ngụm rượu. “Anh không chắc. Cô có biết họ của cô ấy là gì không?”
“Farr”, tôi nói, đáp lại ánh nhìn thắc mắc của Vivien, “Tôi thấy mộ của cô ấy trong nghĩa trang nhà thờ”.
“Mariana Farr. Không, tôi không nhớ. Nhưng có thể cô ấy đang được nói đến ở đây.” Anh ta gõ lên tập tài liệu dày cộm đang nằm trên bàn cà phê thấp cạnh đầu gối mình, với những khay pho mát cùng bánh quy nướng sắp xếp cẩn thận xung quanh.
“Cô tốt nhất nên ngồi cạnh Geoff ấy, Julia, để có thể nhìn rõ hơn”, Vivien khéo léo thu xếp. “Iain, anh cũng dùng một chút rượu Scot chứ?”
“Mạch nha nguyên chất?”, Iain ngoái lại trả lời khi đang lục lọi tủ lạnh. “Tôi thích những khu vườn. Ghét việc nhìn thấy chúng bị bỏ tan hoang.” Anh ta đứng thẳng với một chiếc bánh sandwich trong tay. “Tiện đây cũng từng có một khu vườn rất đẹp ở nhà cô. Eddie già để mặc nó mọc tràn lan. Không buồn bận tâm đến nó.”
“Pha.”
“Vậy anh sẽ dùng một ly, cảm ơn.” Anh ta lôi một chai bia nhập khẩu ra từ tủ lạnh và ngồi cùng chúng tôi, chọn cái ghế đôi đối diện với chiếc sô pha qua chiếc bàn cà phê.
“Còn cô muốn thứ gì hả, Julia? Vivien hỏi. “Ý tôi là đồ uống ấy.”
Trong quá khứ, mỗi lần được hỏi câu đó, tôi luôn thành công trong nỗ lực chọn loại đồ uống chủ nhà không có. Lần này, tôi thử một cách giải quết khác.
“Cô là bartender[1].” Tôi mỉm cười. “Tôi sẽ để cô chọn giúp.”
[1] Người phục vụ quầy bar, phụ trách rót và pha chế rượu.
“Linh hồn cả tin”, Geoff nhận xét lúc Vivien đi lấy đồ uống cho tôi. “Vậy kể tôi nghe xem. Chính xác thì hứng thú với cái gì?”
“Gì cơ?”
“Về mặt lịch sử. Chỉ ngôi nhà của cô thôi sao?”
“Vâng, chủ yếu là thế. Nhưng tôi cũng hứng thú với lịch sử lâu đài của anh nữa.”
“Thật ư?” Anh ta trông có vẻ hài lòng.
Iain lớn tiếng rên rỉ. “Lại nữa à”, anh ta nói, với cái miệng đầy bia và sandwich.
“Sao thế? Tôi nói gì à?”
“Không gì cả”, Vivien đáp, quay trở lại với hai chiếc ly cao đầy ắp chất lỏng lợt màu. “Giống như Geoff lại định sa hố nữa ấy, thi thoảng lại thế khi anh ấy vùi đầu vào lịch sử lâu đài.” Cô ấy đặt đồ uống trước mặt tôi và ngồi bên cạnh Iain, người vừa bắn cho cô ấy một cái liếc ý nhị.
“Đấy là nói một cách tử tế”, anh ta bình luận.
Tôi tò mò nhìn ly nước của mình làm Vivien mỉm cười. “Có rượu rum trong đó”, cô ấy cảnh báo tôi, “nhưng thành phần còn lại là tối mật”.
Ngụm thử nghiệm đầu tiên là một bất ngờ thú vị. “Tuyệt quá. Cảm ơn.”
“Không có gì. Giờ thì, Geoff, mời anh bắt đầu bài giảng đi. Em nghĩ tốt hơn hết anh nên đưa bọn em trở về thời tu viện Benedict và tiếp tục từ đó, theo hứng thú của Julia.”
“Được.” Anh mở tập tài liệu và vui vẻ sắp xếp các giấy tờ bên trong, hệt như một cậu học trò đang thuyết trình trước lớp học. “Vào năm 1173, tôi tin rằng…”
“74”, Iain vừa dùng một tay dụi mắt vừa sửa lại.
“… khi Henry II ban một mảnh đất cho Thomas Killingbeck, nhằm xây dựng tu viện thuộc dòng thánh Benedict. Quy mô xây dựng tương đối lớn vào thời ây.”
“Henry II”, tôi lơ đãng nhoài người về trước. “Đó là cha của Richard Tim Sư Tử, đúng không? Người đã giết Thomas Becket?”
Geoff hướng đôi mắt tán đồng về phía tôi. “Phải rồi. Không nhiều người nhớ đâu.”
“Ừm, anh biết đây, đó là tên anh trai tôi”, tôi giải thích. “Thomas Beckett. Đại loại là tôi đã chú ý đến phần đó trong bài học lịch sử ở trường.”
Iain duỗi chân, gác một cánh tay dọc theo đệm lưng của chiếc ghế đôi. “Tên anh trai cô là Thomas?” Đôi mắt xám của anh ta ánh lên thích thú. “Cha mẹ cô chọn cái tên tương đối thích hợp nhỉ?”
“Tương đối.” Nhằm chiếm được sự đồng tình của Geoff và Vivien, tôi giải thích. “Tom là mục sư ở Hampshire, cách đây không xa lắm.”
Geoff bật cười. “Không phải đấy chứ? Nếu được chọn làm Tổng giám mục Canterbury, anh ấy chắc chắn sẽ khiến vài cái đầu ngoái lại nhìn cho xem.”
“Tôi không nghĩ anh ấy tham vọng thế. Tom thích cuộc sống ở miền quê. Dù sao thì tôi cũng lạc đề mất rồi. Chuyện gì xảy đến với tòa tu viện vậy?”
“À, các thầy tu vẫn ổn cho đến khi Henry VIII quyết định xung công tu viện. Tu viện trưởng cuối cùng đã bị treo cổ vì chống đối hoàng gia.”
“Ông ấy là một trong những bóng ma sao?” Vivien hỏi.
“Rất có thể. Vài người báo cáo đã nhìn thấy hồn ma thầy tu bay khắp các hành lang, nhưng khả năng có phải là hồn ma của tu viện trưởng không thì chưa biết.” Anh ta thẳng thắn đến mức kinh ngạc, như thể nhìn thấy ma ở một trong các hành lang là chuyện thường ngày vậy. “Dù sao đi nữa”, anh ta tiếp tục khi rà soát các ghi chép, “khu đất đã được bán vào năm 1547 cho ngài James Crofton, người bắt đầu xây dựng một tòa nhà trên tàn tích của tu viện. Tòa nhà gọi theo họ của ông ta. Trong những tấm bản đồ cổ, nó được để là lâu đài của Crofton, và khi thời gian trôi đi, người ta bắt đầu bỏ đi từ ‘của’. Ông ta chỉ sống ở đó mười bốn năm, trước khi bán cho Nicholas Hatch, người đã tặng nó cho con trai Edmund như một món quà cưới.”
“Edmund Hatch cũng không dành nhiều thời gian tận hưởng ngôi nhà, bởi ông ta chết vào năm 1594. Có vẻ như do tai nạn súng bắn. Ông ta để lại tài sản cho Ann - vợ ông ta, và bà ấy, Chúa phù hộ, ngay lập tức kết hôn với tổ tiên của tôi, William de Mornay.”
“William làm nghề gì?” Tôi hỏi.
“Ông ấy là một quân nhân về hưu. Tôi không biết vì sao bà lại cưới ông - bà mới mãn tang và người đàn ông ấy gấp đôi tuổi bà.”
“Có thể ông ấy giàu”, Iain giả thuyết.
“Cũng có khả năng.”
Tôi thiên về ý kiến phản đối. Nếu tất thảy sức quyến rũ và vẻ bề ngoài của Geoff đều được thừa kế từ tổ tiên của anh ta, thì tôi nghĩ mình biết chính xác vì sao người góa phụ tên Ann Hatch lại vội vã kết hôn với William de Mornay.
“Ann và William có một đứa con, cũng tên là William, khiến mọi nghiên cứu thêm rối rắm. Cha tôi phải trải qua một giai đoạn kinh khủng để cố phân loại tài liệu nào nói về William cha và tài liệu nào nói về William con. Dù sao nhân vật William con cũng có một chút thú vị. Trong suốt cuộc nội chiến, khi đất nước bị chia cắt bởi tùy tùng của vua Chrles I và những người ủng hộ nghị viện của Cromwell, William con đã mắc sai lầm tai hại, dù đáng khâm phục, khi về phe nhà vua.”
“Khi nhà vua mất đầu, William con mất trang viên và bị ném vào tháp Luân Đôn[2] vì các rắc rối gây ra. Ông được thả vào năm 1660 khi Charles II đoạt lại ngai vàng và được hoàn trả đất đai, nhưng sức khỏe của ông thì không bao giờ phục hồi lại được. Không đầy một năm sau, ông qua đời. Có một bức chân dung còn khá nguyên vẹn của ông trong phòng ăn ở lâu đài - tôi nghĩ có một bức ảnh chụp của nó, đây… phải, đây rồi. Đây là William con.”
[2] Tháp Luân Đôn hay còn gọi là Cung điện Nữ Hoàng nằm ở trung tâm Luân Đôn, phía bắc sông Thames. Đây từng là cung điện, pháo đài của hoàng gia song sang thế kỷ XVI và XVII, nó trở thành nhà tù của những người có địa vị cao (Nữ hoàng Elizabeth I từng bị giam ở đây).
Anh ta đẩy tấm ảnh qua bàn về phía tôi và tôi cúi người để nhìn rõ hơn. Giả định ban đầu của tôi là chính xác. Vẻ ưa nhìn dứt khoát được kế thừa từ đời này qua đời khác. William de Mornay trông khá thanh lịch trong tấm chân dung sống động, với mái tóc xoăn đen, chòm râu vểnh Vandyke và cặp mắt đen lười biếng mang cảm giác đầy nhục dục. Trong chiếc áo choàng đỏ tươi và quần ống túm, một tay ông để trên chuôi kiếm và tay kia ngang ngược chống lên hông, ông trông giống một kỵ sĩ[3] hào hoa đến từng phân nhỏ.
[3] Nguyên gốc là “cavalier” - chỉ những người ủng hộ đức vua trong cuộc nội chiến thế kỷ XVII ở Anh.
“Phải. Chúng tôi không tìm thấy ghi chép nào về những đứa con của ông, bởi tòa trang viên được truyền lại cho cháu trai của ông, Arthur de Mornay. Điều đó có chút sai lầm. Arthur có vẻ đam mê bài bạc và không những mất toàn bộ gia tài của gia đình mà còn dẫn đến kết cục phải bán trang viên để trả nợ. Nên nhà de Mornay lần thứ hai mất đất đai. Chúng tôi không lấy lại được nó cho đến khi cha tôi mua lại lâu đài vào năm 1964.” Anh ta lật thêm vài trang giấy với cái nhíu mày lơ đãng. “Tôi thật sự nên hồi tưởng lại điều này, cô biết đấy, một trong những ngày ấy. Cha tôi say mê gia phả - ông dành nhiều ngày giam mình trong cục lưu trữ công, tìm kiếm những tờ di chúc và tài sản. Nhưng cuối cùng, ông phần nào đã đánh mất hứng thú và tôi dường như không bao giờ có thời gian…”
Iain ngọ nguậy trên ghế. “Bắt đầu hơi chán sau ngài Arthur già rồi, cậu không nghĩ vậy sao Geoff? Sao cậu không tìm cho chúng tôi thứ gì đó về ngôi nhà của Julia ấy?”
“Gì cơ?” Geoff ngơ ngẩn nhìn lên, rồi mỉm cười. “Ồ, đúng rồi. Đợi một phút, tôi phải tìm kiếm một chút đã.”
Tôi nhìn đôi bàn tay anh ta như bị mê hoặc, khi anh ta xáo tung đám giấy tờ. Anh ta có một đôi bàn tay tuyệt đẹp, thon gầy, mạnh mẽ và rám nắng, kèm đôi chút duyên dáng ngẫu nhiên hiển hiện qua từng cử động.
“À há!” Anh ta rút một tờ từ chồng giấy. “Nó đây. Đàn Cừu Xám. Theo nghiên cứu, nó được xây vào năm 1587 bởi một người đàn ông tên Stephen Sharington, một người nông dân thuê đất từ người bạn Edmund Hatch già cỗi của chúng ta. Ngôi nhà được người con trai của Stephen là John thừa kế, người đã bán nó vào năm 1626 cho Robert Howard, một lái buôn. Cô ổn chứ?”
Tôi gật đầu. “Chỉ là cơn ớn lạnh thôi. Xin anh tiếp tục.”
“Gia đình Howard giữ ngôi nhà cho đến những năm đầu thế kỷ XIX, rồi họ bán cho Lawrence Alleyn. Ông ta là một kiểu người vui nhộn - đã chiến đấu với Wellington[4] ở trận Waterloo và dành vài năm ở Ấn Độ. Ông ta chỉ có một đứa con gái tên là Mary, và cô ta có đôi chút cấp tiến trước thời đại. Mặc quần dài và viết tiểu thuyết.”
[4] Hay còn gọi là Công tước Wellington “Công tước Sắt”, một nhà chỉ huy quân sự tài ba, nổi tiếng với trận Waterloo đánh thắng Napoleon năm 1815. Sau này trở thành Thủ tướng Chính phủ.
“Những cuốn tiểu thuyết kinh khủng”, Vivien khẽ nhún vai thêm vào. “Tôi từng đọc một cuốn. Dạng thời Victoria. Đầy rẫy những đoạn miêu tả dài loằng ngoằng và khô như ngói.”
“Tuy vậy.” Geoff mỉm cười khoan dung. “Cô ấy chết vào năm 1896 và ngôi nhà được bán cho đại úy James Guthrie.”
“Chính là ‘Đại úy nào đó’ mà những người đàn ông đã kể cho cô nghe hôm trước”, Vivien nói. “Tôi đã hỏi dì tôi về ông ta. Dì ấy nói ông ta là sĩ quan hải quân, hay gì đó, nói chung là rất bí ẩn. Vài người nghĩ ông ta là gián điệp. Có vẻ ông ta đã điều hành ngôi nhà như một trong những con tàu của mình. Có ba cô con gái, hầu như không được phép đi ra ngoài, tội nghiệp.”
“Chuyện gì xảy đến với họ?” Tôi hỏi.
“À, cuối cùng người cha chết.” Cô ấy mỉm cười. “Bị hạ độc, hầu hết mọi người đều nghĩ vậy. Các cô gái bỏ đi và lấy chồng. Chuyện này diễn ra vào đầu những năm hai mươi.”
“Hừm, ăn khớp đấy”, Geoff thừa nhận, “bởi vào năm 1921, ngôi nhà được bán cho William Randall, cha của Eddie già. Ông ta đã cố thuyết phục người sở hữu lâu đài Crofton khi đó - tôi nghĩ tên là Pilkington - tách một phần vùng đất, nên nhà Randall là những người đầu tiên đứng tên đất chính chủ.”
“Và sau nhà Randall, người chủ tiếp theo là cô”, Vivien nói với tôi. “Không đề cập đến một cô Mariana nào ở đây sao?”
Iain nhún vai. “Cô ấy có thể là một người hầu.”
“Hoặc vợ của ai đó”, Geoff đoán. “Các ghi chép cũ hiếm khi đề cập đến những người phụ nữ trong gia đình.”
Tôi gật đầu. “Dù sao cũng rất thú vị. Không phiền nếu anh cho tôi một bản sao của nó chứ?”
“Lịch sử ngôi nhà của cô hả? Tôi rất vui ấy chứ.” Ánh mắt anh ta ấm áp nét cười đón mắt tôi và tôi đột ngột cảm giác như thể mình không hít đủ không khí. Tôi quay đi, phá vỡ kết nối, và với tay lấy đồ uống của mình.
“Cô có muốn thêm một ly không?” Vivien đề nghị khi nhìn vào ly tôi.
“Ôi, không đâu, cảm ơn cô, tôi như đang trôi bồng bềnh rồi đây này.”
“Dẫu vậy, anh sẽ uống thêm một ly Scotch nữa.” Geoff phấn khởi giơ chiếc ly rỗng của mình lên làm Vivien mỉm cười đứng dậy khỏi chiếc ghế đôi.
“Thế khá hơn là không nói năng gì, không phải sao? Còn Iain? Thêm bia nữa nhé?”
“Chắc rồi, sao không? Anh ta cũng đưa lên chiếc chai rỗng và trông cũng gần mệt như tôi vậy. Rồi tôi nhớ ra, là một nông dân, anh ta chắc chắn phải dậy sớm khi bình minh ló dạng mỗi ngày.
Geoff ngả lưng trên ghế, ly rượu của anh ta đã được đổ đầy. Anh ta xê dịch một chút trên sô pha để có thể trực diện nhìn tôi. “Thế, việc định cư của cô thế nào rồi?”
“Tương đối ổn, cảm ơn anh”, tôi nói. “Tôi đã dỡ được hầu hết các thứ quan trọng, quét dọn các phòng sạch sẽ và số còn lại tôi sẽ làm tiếp khi nào có hứng.”
Vivien ngồi xuống ghế đôi, khoanh hai chân lại. “Tôi nghĩ cô rất khôn ngoan”, cô ấy nói. “Sau cùng, những phòng quan trọng nhất là phòng bếp và phòng ngủ, thực đấy.”
“Và phòng tắm”, Geoff đế thêm.
“Và xưởng vẽ của tôi.” Tôi mỉm cười. “Hai tuần vừa rồi thật kinh khủng, tôi không làm việc một chút nào cả. Biên tập của tôi sẽ ngất xỉu bốn mươi lần nếu cô ấy phát hiện ra.”
“Julia”, Vivien thông báo chung cho cả phòng, “vẽ tranh minh họa cho sách thiếu nhi”.
Iain uống một mạch hết chỗ bia, đôi mắt xám của anh ta lấp lánh trên gương mặt điềm tĩnh. “Ừ, anh nghĩ mình có nghe nói về điều đó.”
“Công việc thú vị”, đó là lời bình luận của Geoff. “Hẳn cô không có nhiều bó buộc.”
“Vâng. Nhưng tôi vẫn phải tuân theo kế hoạch, nếu không sẽ chẳng bao giờ hoàn thành việc gì cả. Tôi thường làm việc vào các buổi sáng và nghỉ vào phần còn lại trong ngày.”
“Giờ cô đang minh họa loại sách nào thế?” Vivien hỏi. “Một cuốn khác của Bridget Cooper ư?”
Tôi lắc đầu. “Thực ra nó là một bộ truyện cổ tích. Hay lắm.Có rất nhiều câu chuyện từ phương Đông và bản dịch thì xuất sắc.”
“Cô làm việc dựa vào mỗi trí tưởng tượng thôi”, cô ấy thắc mắc, “hay tranh ảnh và thứ gì đó khác?”
“Mỗi thứ một chút. Đôi khi tôi vẽ những cái nhìn thấy từ cuộc sống, phụ thuộc vào hình dáng tôi muốn.”
“Vậy cô sẽ cần người mẫu”, Geoff lưu ý, phô bày gương mặt với sự khoa trương rất kịch.
Iain nhe răng cười. “Lại tự tưởng tượng mình là Hoàng Tử Quyến Rũ đấy à?”
“Đức vua cơ”, Geoff khinh khỉnh sửa lại. “Cần gì mà ấn định mình chỉ là hoàng tử?”
“Hoàng tử mới được con gái chạy theo”, Iain chỉ ra làm Geoff nghiêng đầu nghiền ngẫm.
“Cậu nói đúng. Thôi được rồi, tôi đành tự đề cử mình làm Hoàng Tử Quyến Rũ vậy. Nếu cô cần tôi”, anh ta nói, cùng với một nụ cười có thể khiến trái tim người đối diện ngừng đập ngay tức khắc.
Tôi ưu tiên không đáp lại, dù phải thừa nhận Geoffrey de Mornay chắc chắn đủ điều kiện để sắm vai hoàng tử trong truyện cổ tích.
Cuộc nói chuyện của chúng tôi diễn ra chậm rãi thêm khoảng nửa giờ, thời điểm tôi phải vật lộn để chống giữ mí mắt. Trái ngược với tôi, tôi nhận thấy Iain Sumner đang nhìn mình với nụ cười thấu hiểu, đầu anh ta dựa sâu hơn vào những tấm nệm.
“Nếu cậu muốn trở thành Hoàng Tử Quyến Rũ”, cuối cùng anh ta làm gián đoạn câu chuyện khi quay sang nói với Geoff, “cậu có thể ngừng nói và hộ tống cô gái tội nghiệp này trở về nhà trước khi cô ấy ngủ gật”.
Geoff ngạc nhiên nhìn tôi, “Xin lỗi”, anh ta nói. “Tôi quên mất cả đêm qua cô đi dự tiệc ở Luân Đôn. Cô có muốn quá giang về nhà không? Tôi có thể lái xe vòng lại đây.”
“Lấy xe em ấy, nếu anh muốn”, Vivien gợi ý. “Nó đỗ ngay góc đường.”
Quyết định có vẻ là vì tôi. Vài phút sau, tôi phát hiện bản thân đang ngồi cạnh Geoff trong chiếc Vauxhall được Vivien giữ gìn cẩn thận, chỉ nhớ lơ mơ đã tạm biệt chủ nhà và Iain, anh chàng đã cắm rễ sâu hơn vào đệm của chiếc ghế đôi.
Chỉ mất vài phút lái xe để đưa tôi về nhà. Khi cho chiếc xe đỗ lại trên lối đi rải sỏi, Geoff quay sang nhìn và tôi đột ngột nhận thức được tác động tuyệt đối từ thân thể gần gũi của anh ta trong chiếc xe thẫm tối.
“Ngày mai cô định làm gì?” Anh ta hỏi.
“Tôi không chắc. Sao thế?”
“Tôi đang nghĩ có thể dẫn cô đi tham quan lâu đài như đã hứa. Kiểu tham quan đằng-sau-hậu-trường, nếu cô thích. Hấp dẫn hơn những gì khách du lịch nhìn thấy rất nhiều.” Nụ cười của anh ta vô cùng quyến rũ, và rất thuyết phục.
“Được thôi.”
“Tốt. Vậy chọn lúc nào đó vào buổi chiều nhé. Tôi sẽ ở nhà cả ngày.”
“Vâng. Chúc anh ngủ ngon, Geoff.” Tôi mò mẫm tìm tay nắm cửa. “Cảm ơn đã cho tôi đi nhờ.”
“Không có gì.”
Không hiểu sao, có vẻ rất tự nhiên, khi Geoff vươn người qua và trao cho tôi nụ hôn chúc ngủ ngon. Cũng tự nhiên khi tôi nghiêng người thấp hơn một chút để đáp lại cử chỉ đó. Tất cả chỉ là tình cờ và là giao tiếp mang tính bạn bè, ấy vậy mà tôi vẫn có thể cảm nhận được hơi ấm lưu lại ngay khi đèn đuôi xe của chiếc Vauxhall biến mất cuối đường để quay lại ngôi làng.
Với tiếng thở dài khe khẽ, tôi quay người và bắt đầu băng qua bãi cỏ đi về ngôi nhà, lê đôi chân trong cơn mỏi mệt đột ngột dâng lên. Gió thổi mạnh hơn kể từ bữa tối. Không khí buổi đêm có vẻ nặng nề với cơn mưa đe dọa ập đến. Thêm vào việc khẳng định phán đoán chính xác của tôi, tiếng sấm ầm ầm phía xa có thể nghe rõ ràng trên tiếng gió rền rĩ qua những rặng cây kẽo kẹt.
Còn vài bước nữa mới đến cửa trước thì nó thình lình bật mở, mảng sáng màu vàng tràn qua bãi cỏ và dựng lên bóng hình của một người đàn ông, người đang nhìn tôi tiến lại với hai cánh tay khoanh trước ngực.
“Bác”, tôi gọi, nhưng giọng nói đã bị gió cuốn phăng.
Sấm lại rền vang, những bước chân của tôi thoáng loạng choạng. Thu hết can đảm, tôi nhấc vạt váy sũng nước khỏi mặt cỏ và ép bản thân đi những mét cuối cùng đến khung cửa.
Người đàn ông hơi ngẩng đầu và tôi có thể nhìn thấy nét mặt ông rõ hơn - đôi mắt của mẹ tôi đang nằm trên gương mặt như diều hâu và không sót lại chút dịu dàng nào của bà. Tôi nghếch cằm và im lặng nhìn ông chằm chằm. Tôi đã định mỉm cười, nhưng không hiểu sao vẻ mặt ông không đem lại cảm giác thân quen nào. Chúng tôi nhìn nhau một lúc lâu, trong khi cơn bão nổi lên và quần thảo phía sau, cùng lúc gió mỗi lúc một than vãn điên cuồng.
“Vậy”, ông cuối cùng cũng lên tiếng. “Chị đã đến.”