Mê Tông Chi Quốc

Chương 147: Hồi 9





Theo miệng Lão Xà, tình hình khi nãy là đèn chiếu u chập chờn sắp tắt, đáy động dội lên một cột khí đen xoay vần cùng luồng âm phong, không gian xung quanh hộp động bỗng dưng trở nên đen kịt, thò tay ra không nhìn thấy ngón, nhưng ngọn nến cắm phía trước hộp đồng thì vẫn sáng.



Lão Xà đã gặp một người nói ám hiệu với mình trong bóng tối, gã đành liều mạng cướp cỗ di hài, nhưng từ vùng bóng tối thoát ra ngoài ánh sáng, người cách gã gần nhất lúc bấy giờ lại là Tư Mã Khôi, ngoài ra tuyệt đối không còn ai khác. Lão Xà cho rằng mình bị tổ chức lợi dụng, sau đó giết người diệt khẩu, nên trong lòng bất giác phẫn uất quá hóa giận; nhưng gã cũng phát hiện, sau khi mở hộp đồng của Sở U Vương, thì chắc chắn đã xuất hiện thứ gì đó rất đáng sợ.



Vậy nên gã đành nén giận, trốn vào trong khám động lánh nạn trước. Lão Xà nói đến đây thì im lặng, chỉ nấp sau tượng thú nhìn Tư Mã Khôi chằm chằm, dường như đang đợi anh trả lời. Không khí trong động thất tối đen như mực phút chốc trở nên tĩnh lặng. Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ lại toàn bộ đầu đuôi sự việc.



Anh nhận thấy, nếu lời Lão Xà nói là thật, thì kẻ phát ra ám hiệu gần chiếc hộp chắc chắn là Nấm mồ xanh, bởi vì tình hình quái dị lúc đó anh cũng từng gặp một lần ở thành Nhện Vàng. Thật không ngờ, từ rừng rậm Miến Điện đến tận huyệt động Thần Nông Giá, anh vẫn không thể thoát khỏi sự truy đuổi của vong hồn đó.



Có điều, cỗ di hài trong chiếc hộp Sở U Vương, thực ra chỉ là chút pha lê và vàng ròng chôn giấu ở nơi sâu trong mạch đất mà thôi, nhưng vì sao Nấm mồ xanh lại dẫn tên thổ tặc mang cỗ di hài đi về hướng đó? Lời nguyền khắc trên chiếc hộp đã nói rõ, kẻ nào nhìn trộm di hài, kẻ đó sẽ lập tức phải chết.



Sau khi mở chiếc hộp, quả nhiên có thứ đúng như âm hồn xuất hiện và Hải ngọng cũng đột nhiên lăn ra chết vì nó. Thế nhưng sao lúc này trong khám động lại yên lặng kì lạ đến vậy, chẳng lẽ quái vật thời Sở kia thực sự có khả năng trấn giữ ma quỷ thật? Sau khi mở chiếc hộp, các sự việc quái dị cứ liên tục xảy ra mà Tư Mã Khôi không tìm ra manh mối nào, cứ như là đang đứng giữa màn sương dày đặc.




Điều duy nhất mà anh có thể xác định được bây giờ là phương hướng cơ bản có lẽ không bị nhầm. Người cổ đại đã khai quật vật thể thần bí từ lòng đất lên, thì chắc chắn họ đã chạm tới cánh cửa của lời giải, bây giờ chỉ có nghĩ cách cướp lại cỗ di hài, mới mong tìm được chốn thoát thân trong khám động có quái vật “tải” này, rồi sau đó tiếp tục tìm đường tắt thâm nhập mạch dưới đất núi Âm Sơn.



Thế nhưng việc cần làm trước mắt là phải giải quyết tên thổ tặc như xác chết di động này trước đã. Tư Mã Khôi biết rõ đối thủ là tay thủ đoạn cao cường, lúc này hắn đang ở ngay trước mắt nên anh không dám lơ là. Anh nhìn chằm chằm vào thân hình đối phương. Nhị Học Sinh thấy tình thế đang chuyển biến, sợ mọi người hành động trong bóng tối không tiện, liền vội vàng đốt đuốc, đèn đồng trong động thất cũng được thắp sáng.



Lão Xà tuy biết nhiều bí thuật dị thường, nhưng rốt cuộc vẫn chỉ là gã hái thuốc, cả đời chưa bao giờ bước chân ra khỏi rừng sâu núi thẳm, tầm nhìn hạn hẹp, nông cạn, vì vậy, gã tưởng rằng, kẻ phát ra ám hiệu là Tư Mã Khôi, lại thấy đối phương im ỉm không trả lời, thì càng cho rằng mình nhận là đúng.



Gã nghiến răng kèn kẹt, tuy lòng biết rõ phen này có chắp cánh cũng không bay thoát, nhưng cho dù tất cả mọi người đều bị nhốt dưới lòng đất, thì gã cũng phải tận tay bóp chết từng người mới yên lòng nhắm mắt. Thế là, gã vận khí, rồi đầu, ngực, eo, vai, cánh tay, khuỷu tay, đầu gối, ngón chân phát ra tiếng “cách cách” nhè nhẹ, từ trên xuống dưới lan khắp toàn thân.



Tư Mã Khôi biết một trận quyết đấu sống mái sắp diễn ra trong tích tắc. Lúc trước, anh đã nếm mùi lợi hại của gã thổ tặc này. Gã có thân hình lực lưỡng, hành động uyển chuyển như vượn, nhanh thoăn thoắt như chim ưng, nếu không thể dùng súng hạ gục gã ở khoảng cách xa, thì e rằng rất khó dồn đối phương đến chỗ chết.



Người nào người nấy thần kinh căng như dây đàn, cùng lùi mấy bước, lấy vách khám làm chỗ dựa. Tư Mã Khôi lùi đến rìa khám động, đang định giương súng, thì bỗng nhiên anh cảm thấy từng sợi lông tơ trên cổ mình dựng đứng lên, bởi một luồng âm hàn phía sau thổi buốt tận xương tủy.



Anh biết có biến cố, liền quay nhanh lại nhìn. Chùm sáng đèn quặng chiếu sáng khám động bỗng tối lại, rồi xuất hiện một người đội mũ Pith Helmet. Lúc này, đối phương cũng đang ngẩng đầu nhìn anh, và khoảng cách hai khuôn mặt đối diện nhau chỉ tầm chục mét. Tư Mã Khôi lờ mờ thấy gương mặt của kẻ đó.



Anh giật nảy mình: “Người kia là… mình sao?” Khám động tối đen như mực, tuy Tư Mã Khôi có đèn quặng, nhưng tầm nhìn vẫn vô cùng mơ hồ, anh và kẻ đó lại đứng cách nhau bởi pho tượng thú đổ ngang cản đường, bởi vậy không hoàn toàn nhìn rõ khuôn mặt đối phương, mà chỉ có thể nhận ra đối phương cũng đội mũ Pith Helmet trên đầu.



Loại mũ bấc của người Pháp này làm bằng loại gỗ mềm, hình dáng rất đặc biệt, trừ ba thành viên may mắn sống sót trong đội khảo cổ ra, thì cả vùng núi này không thể có người thứ tư đội nó được. Kẻ xuất hiện trong khám động khi nãy là ai? Tư Mã Khôi nhớ đến lúc linh hồn vọt ra khỏi chiếc hộp đồng, mà lòng vẫn khiếp sợ.



Anh nhớ, có lần giáo sư Nông Địa cầu từng kể một chuyện về bác sĩ tâm lý người Áo, Sigmund Freud, lừng danh thế giới trong lĩnh vực phân tích thần kinh, mà theo lý thuyết của ông thì thần kinh là cụm từ để chỉ “cảm giác, tri giác và ý thức”, mà trong thần kinh của con người, ngoại trừ “cái tôi” ra, thì trong tiềm thức còn có sự tồn tại của “bản ngã” và “siêu bản ngã”.




Lúc đó, Tư Mã Khôi chỉ nghe tai nọ lọt tai kia, nên đến tận giờ anh vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa của nó. Anh cho rằng, quan điểm này gần tương tự như quan niệm truyền thống ba hồn bảy vía của Trung Quốc, có câu “hồn vía tụ hợp thành tinh thần”, một khi tinh thần tiêu tan thì sẽ trở thành “siêu bản ngã”, cũng có nghĩa là sẽ xuất hiện một bản thân khác ở trạng thái đặc biệt.



Có lẽ, sau khi chiếc hộp mở ra, một phần linh hồn đã bị rời khỏi thể xác, rồi dần dần trở thành thực thể? Hay chẳng lẽ kẻ đang đứng trong khám động lúc này… lại chính là Hải ngọng vừa nằm đứ đừ trên đất khi nãy? Nếu không, chẳng lẽ là yêu quái biến thành người sao? Nhưng bất kể là khả năng nào, thì đều khiến người ta cảm thấy dựng hết tóc gáy.



Tư Mã Khôi biết thế thái biến hóa vô thường, trước khi nhìn rõ mặt kẻ đó, tuyệt đối không được võ đoán, anh lầm bầm: “Bố mày phải xem mày rốt cuộc là đứa nào mới được?”, rồi anh bạo gan lấy tay xoay luồng sáng đèn quặng, quầng sáng chiếu thẳng vào mặt đối phương, nhưng cự li chùm sáng vươn tới chỉ tầm mấy mét, chiếu tới khám động thì như thể bị luồng khí đen chặn lại, nên anh không nhìn thấy gì trước mắt nữa.



Tư Mã Khôi cảm , thấy có vật gì ở trong đó đang động đậy, nhưng vì bị vách khám cản trở, nên không thể vào được. Lão Xà thấy Tư Mã Khôi ngoảnh đầu nhìn khám động, thì sự chú ý của gã cũng bị phân tán, liền định nhỏm dậy sau tượng đá, lao thẳng vào trong đó, nhưng ngặt nỗi trong “hàm tải” lại đặt mấy ngọn đèn chiếu u.



Nhị Học Sinh cầm đuốc, làn lượt thắp sáng hết mấy cây nến cỡ lớn trong thạch thất. Không gian phút chốc sáng bừng như ban ngày. Lão Xà vừa thò người ra đã trở thành tấm bia đỡ đạn sống, vừa vặn nằm trong tầm ngắm bắn của khẩu M-1887, dẫu Lão Xà mình đầy bí kíp nhưng bây giờ cũng không kịp thi triển.



Gã điên cuồng như con thú bị chọc tiết, thấy Nhị Học Sinh đang vươn người châm đèn, liền mò mẫm trong bóng tối rồi lấy ra một đoạn mác đồng bị gãy, nhắm vào Nhị Học Sinh, ném thật mạnh. Tư Mã Khôi nghe thấy tiếng “vù vù” rạch không gian ngay sau lưng, liền quay ngoắt đầu lại.



Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương vẫn dính mắt bám sát Lão Xà nhưng vẫn không ngờ gã đột nhiên ra tay nhanh như vậy Cả hai chưa kịp hét lên kinh hoàng, thì đoạn mác đồng đã bay đến trước mặt Nhị Học Sinh. Nhị Học Sinh sợ tái mặt, hai chân nhũn xuống đất, đoạn mác bay sát sạt qua vai anh chàng, đập vào tường một mảnh áo và da thịt bị xén khuyết.



Nếu không phải vi Lão Xà sợ nên không thò cả người ra khỏi tượng thú, thì cái mác đồng đã xuyên thủng ngực Nhị Học Sinh rồi. Mác đồng lao tới, đập mạnh vào vách đá khiến vụn đá văng ra tứ tung. Tượng đá vỡ thành mấy mảnh, vụn đá và mác đồng cùng rơi rào rào xuống đất.



Tuy Tư Mã Khôi và hai thành viên còn lại đứng cách đó khá xa, nhưng cũng bị bụi đá văng vào mặt, cảm thấy ran rát. Không ngờ, tên giặc đất này lại có sức mạnh kinh hồn đến thế, lòng anh cũng không khỏi thầm kinh hãi. Tư Mã Khôi sợ đối phương giở lại bài cũ, anh vẫy tay bảo hội Hương Lân trốn sau đèn chiếu u.



Mọi người vừa nấp xuống, thì một quầng màu sắc cổ xưa, loang lổ ở chỗ đá vỡ trên vách đã đập ngay vào mắt, thì ra phía dưới bức tường đá khắc họa tiết còn có một lớp bích họa nữa, miêu tả những chuyện quái lạ sẽ xảy ra sau khi mở hộp đồng Sở U Vương. Người Sở cổ đại thích hành lễ vu thuật hỏi ma, nên nội dung bích họa vẽ trên cuộn tranh lụa của áo quan cũng rất kì bí.



Trong những bài từ thời Sở, có một bài rất nổi tiếng, tên là “Thiên vấn”, tức là sau khi Khuất Nguyên tận mắt nhìn thấy bức bích họa tráng lệ, huy hoàng của Sở quốc, ông đã quay mặt vào tường để hỏi trời. Những nghi vấn ông đưa ra để hỏi, bao gồm thiên địa vạn tượng âm hòa, thần kì quỷ quái, gọi chung là “thiên cổ vạn cổ chí kĩ”, qua đó cũng đủ thấy bích họa thời Sở bí hiểm đến mức nào.




Bức tranh đầy màu sắc lộ ra sau lớp đất đá trên khám động là hình vẽ con thú mình rùa đầu rồng, tên gọi là “tải”, cỗ di hài trong huyệt động được đặt trên lưng nó, vây quanh phía ngoài có rất nhiều thiếu nữ với dáng hình thướt tha, không rõ là người hay ma, có lẽ giống với dáng dấp tiên nữ trong bức bích họa “phi thiên” thời Đôn Hoàng.



Họ sống trong chiếc hộp có hình dáng đặc biệt, ẩn ẩn hiện hiện giữa màn sương mù, không khí quanh họ nhuốm đầy màu sắc cổ quái, yêu ma. Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân đưa mắt nhìn nhau, hai người đều cảm thấy nội dung bích họa trong khám động vô cùng kì bí, có khả năng liên quan đến những ẩn số bí mật như di hài, quái vật thời Sở, núi Âm Sơn… Nhưng phần lớn bức họa đã bị tường đá chạm trổ phía trên niêm phong kín, chỗ lộ ra chỉ là một phần rất nhỏ còn sự kiện mô tả trong bức họạ lại rất cổ xưa và li kì, khiến mọi người nhất thời không thể lý giải nổi ý nghĩa sâu xa ẩn chứa bên trong.



Tư Mã Khôi cũng hiểu rõ kẻ địch vẫn quanh quẩn đâu đây, anh không có thời gian quan sát thêm mấy bức bích họa, liền lấy tay ra hiệu cho mọi người xách súng đi vòng qua đèn chiếu u, chầm chậm bao vây chỗ Lão Xà đang ẩn nấp. Nhị Học Sinh nhặt khẩu súng săn trên cái xác cứng đơ của Hải ngọng, bám sát ngay sau lưng Tư Mã Khôi, chuẩn bị cuộc chiến sống mái với Lão Xà.



Thủ đoạn của gã đã rất tàn độc, không những vậy, gã còn là tay thợ săn cừ khôi, chuyên hái thuốc trong rừng sâu. Nhưng suy cho cùng, Lão Xà cũng vẫn chỉ là hạng hữu dũng vô mưu, đối phó với hung cầm mãnh thú thì còn tạm ổn, chứ hội Tư Mã Khôi đều có súng, chỉ cần ổn định thế trận là có thể triển khai theo chiến lược, sử dụng chiến thuật chính xác, hợp sức tấn công, cố gắng thì sẽ dồn được đối phương vào góc chết trong động thất chật chội.



Lão Xà thấy không còn đường thoát, xem ra có muốn tóm hai đứa làm đệm lưng cũng còn khó, nên gã càng nóng lòng như kiến bò chảo lửa. Lão Xà nghĩ, nếu để cho bọn này giết chết hoặc tóm sống mình rồi hạ nhục, thì chi bằng cứ liều mạng chui ra khỏi động, cùng lắm là chết.



Nghĩ đoạn, gã liền ôm di hài, thụt lùi dần ra cửa động. Tư Mã Khôi biết cỗ di hài vô cùng quan trọng, nói không chừng, có thể là kết nối cả chuỗi ẩn số xuất hiện dưới biển m Hải, vì thế anh có muốn vuốt mặt cũng phải nể mũi vài phần. Vậy là, Tư Mã Khôi cố gắng nổ súng để không chạm tới cỗ di hài.



Đạn bắn trúng vách tường, đá vụn rơi xuống rào rào, một mảng bích họa nữa lại lộ ra. Lão Xà lui về chỗ cạnh vách hộp mà gã bò vào lúc trước. Gã nghĩ, tuy mình không thể trực tiếp giết chết mấy người này, nhưng có thể mang bí mật về cỗ thi hài chôn vùi mãi mãi. Cảm giác báo được thù đã khiến gã cảm thấy hơi phấn khích, nhưng bỗng nhiên, hắn cảm thấy sau lưng dường như có người; quay đầu lại nhìn, gã giật thót mình, chỉ thấy Hải ngọng khi nãy còn chết cứng đơ trên đất, giờ đang gườm mặt nhìn, giống như tòa tháp bằng thép đứng sừng sững sau lưng từ bao giờ.



Lão Xà làm nghề đào mồ bới mả bao năm nay, nhưng chưa bao giờ gặp phải tình huống yêu mị đến thế, gã bất giác rùng mình kinh sợ, nhỏ giọng thảng thốt: “Xác chết sống dậy?”. Hải ngọng không nói không ràng, vung con dao săn trong tay bổ xuống nhanh như chớp giật. Lão Xà không kịp đề phòng, liền ăn một dao, cả đầu lẫn vai đều trọng thương, lớp da vượn trên má cũng bị lột một mảng lớn.



Gã đâu dám dừng lại, vội buông tay vứt di hài, rồi lộn một vòng tránh né, cuối cùng chui tọt vào trong động, và chớp mắt đã mất dạng. Gã thổ tặc sợ chết khiếp, còn hội Tư Mã Khôi cũng kinh ngạc không thốt nên lời, tất cả đứng chôn chân tại chỗ nhìn Hải ngọng và bức họa phía sau anh, cảm giác như thể mình vừa sa chân vào vòng luân hồi sinh tử không lối thoát và đối diện với vòng tròn kinh dị vĩnh viễn không có lời giải.