So sánh với cuộc sống “ở nhờ” rối loạn, cuộc sống học tập trên trường thoải mái hơn Thời Mông tưởng tượng nhiều.
Thầy Mã hướng dẫn sinh viên toàn nhờ vào duyên phận, chưa từng bố trí những chủ đề khuôn sáo hạn chế sự phát huy của sinh viên, mục đích lên lớp chủ yếu là để sinh viên thoải mái tay chân tự do sáng tác, tiết học sau sẽ thưởng thức thảo luận tác phẩm của tiết học trước, dạy và học thong thả có chừng mực, tiết tấu đâu vào đấy.
Thời gian cũng không bị khống chế quá quắt, ông tin tưởng rằng nghệ thuật bắt nguồn từ cảm hứng tức thì, nếu coi việc thiết lập thời gian vẽ tranh cũng như làm bài tập về nhà, vậy nó sẽ tiêu diệt niềm đam mê và ý định sáng tạo ban đầu.
Bởi vậy không mấy khi Thời Mông tới trường, mỗi lần hoàn thành tác phẩm, bấm số điện thoại của thầy Mã nhưng thường là đối phương cũng không ở trường, có đôi khi hẹn gặp ở bảo tàng mỹ thuật, có khi là ở quán
trà, kỳ quái nhất là có lần ở công viên, vì ông thầy của cậu chạy bộ buổi sáng kêu mỏi chân, không muốn đổi địa điểm, nên gọi Thời Mông tới đó.
Lúc Thời Mông đeo ống đựng tranh chạy tới, nhìn thấy phía xa xa có một đám người tụ tập, đến gần mới phát hiện thầy Mã đang đứng trong đám đông, hai tay cầm bút địa thư (*) mà như cầm chổi lau nhà, đang vẽ gì đó lên mặt đất.
(*) Địa thư: loại hình nghệ thuật dùng nước vẽ lên mặt đất rất đặc sắc của TQ.
Vì tính hạn chế của nghệ thuật vẽ nước trên mặt đất, những dãy núi được vẽ ra không đều nét, ánh mặt trời chiếu xuống cũng làm chúng khô rất nhanh. Người qua đường không biết ông vẽ cái gì, đứng xem một chốc cảm thấy vô vị là bỏ đi, nhưng thầy Mã vẫn vẽ khí thế, trái một nét phải một nét, như thể cái người vừa than mệt không muốn nhúc nhích trong điện thoại là người khác không bằng.
Thời Mông đứng bên cạnh yên lặng nhìn, chờ đến khi thầy Mã vẽ thỏa, vẫy tay về phía cậu, cậu mới bước lên trước lấy bức tranh trong ống đựng ra.
“Lại là nhân vật hả.” Trước tiên là quan sát tổng thể bức tranh một phen, sau đó thầy Mã gật đầu nói, “Khá lắm, xử lý bố cục ánh sáng thành thạo hơn lần trước nhiều.”
Nghe được câu nhận xét này thì chuyến đi này không uổng. Lại thảo luận về các bộ phận chi tiết với thầy Mã trong chốc lát, Thời Mông nhét lại tranh vào cuộn, định ra về.
“Đừng đi vội thế chứ.” Thầy Mã gọi cậu lại, đưa bút địa thư cho cậu, “Lại đây, thử vẽ gì đó đi.”
Thời Mông nhận bút, cúi đầu nhìn mặt đất, sửng sốt hồi lâu, nói: “Em không có gì muốn vẽ cả.”
Thầy Mã ngồi xuống bên cạnh phẩy quạt: “Sao lại không có gì muốn vẽ? Trò nghĩ lại cho kỹ.”
Lại năm phút đồng hồ trôi qua, Thời Mông rũ thấp đầu, từ bỏ: “Thật sự không có ạ.”
“Vậy bức tranh thầy vừa xem là cái gì?” Thời Mông không nói.
Thầy Mã thở dài, lại vẫy tay, ra hiệu cho Thời Mông tới ngồi xuống.
“Tập trung nghiên cứu một cảnh tượng, một đồ vật nào đó thì luôn muốn vẽ nó đến mức cực hạn, thầy cũng từng có tâm tình này, và cũng hoàn toàn hiểu.” Chưa bao giờ thầy Mã bày ra vẻ bề trên, bởi vậy ông luôn luôn có thể gạt bỏ sự kháng cự giao tiếp của Thời Mông một cách dễ dàng, “Tuy rằng thầy ủng hộ tự do sáng tác, hi vọng lớp học trò của mình có thể thoải mái “bút của tôi vẽ nên tư tưởng của tôi”, nhưng thầy càng hi vọng em có thể phân biệt rạch ròi sự khác biệt giữa nghiên cứu chuyên sâu và chấp niệm.”
Lúc thầy Mã nói đến hai chữ “nhưng thầy” là tinh thần Thời Mông run rẩy.
Cậu cho rằng mình che giấu rất tốt, cũng chưa từng biểu lộ mục đích sáng tác trước mặt người khác, không ngờ rằng…
“Nghiên cứu sẽ thúc đẩy em đột phá trong một lĩnh vực nào đó, có thành tích và chỗ đứng trong xã hội, còn chấp niệm thì sẽ chỉ vây khốn em tại chỗ, khiến em bỏ lỡ rất nhiều cảnh đẹp đáng lý ra em có thể thưởng thức.”
Khác với dự đoán của Thời Mông, thầy Mã không tiếp tục nêu rõ.
Thậm chí ông còn không ngăn cản việc Thời Mông tiếp tục chăm chăm vẽ một người, mà chỉ nhận bút địa thư trong tay Thời Mông, có chút tiếc nuối: “Thầy đã xem rất nhiều tác phẩm của em, bao gồm cả bức
《Diễm》 kia. Bọn họ nói em cướp đoạt bức tranh đó, nhưng thầy lại cho rằng, chỉ có em mới có thể vẽ ra loại khát vọng nhiệt liệt ấy, giãy dụa
muốn chạm vào nhưng lại sợ bị thiêu cháy ấy.”
Tầm mắt run lên kịch liệt, Thời Mông ngẩng đầu lên nhìn người đối diện.
Đây là người đầu tiên tin tưởng cậu trong những năm qua, lý do không phải là vì cái gọi là chứng cứ, mà là hiểu rõ và tín nhiệm cậu.
Đón lấy ánh mắt của Thời Mông, thầy Mã càng bùi ngùi: “Người có thể vẽ ra tác phẩm tràn trề tình cảm như vậy nên tự do phóng khoáng, mà không nên bị vây nhốt cầm tù.”
Trước khi chia tay, ông nhìn mặt đất đã khô ráo, không lưu lại dấu vết gì cả, cười nói: “Nếu như trò mệt mỏi, thì cứ như thầy, tùy tiện tìm một chỗ nào đó ngồi nghỉ, đợi đến khi muốn vẽ gì đó thì lấy bút ra.”
“Cứ vẽ thứ gì đó mà em yêu thích, thầy hi vọng em cầm bút lên là buông được chấp niệm xuống, xem giấy vẽ như một thế giới thu nhỏ, mặc sức múa bút vẩy mực bên trên, mọi sự tự do bay bổng.”
Sau khi quay về, Thời Mông đứng ngoài ban công ngẩn người rất lâu, mãi đến khi mặt trời ngả về Tây, mấy ngôi sao thưa thớt nhô ra khỏi tầng mây.
Mùa xuân của Phong thành tới rất vội vàng, đi cũng vội vàng, đầu hạ đến, trừ mùa mưa ẩm ướt sình lầy ra, còn thêm một cảm giác oi bức khiến người ta muộn phiền.
Luồn tay vào túi nhưng không sờ thấy thuốc lá, Thời Mông ngơ ngác một hồi, rồi mới nhớ ra mình đã cai thuốc từ lâu.
Vì sao lại cai thuốc lá?
Vì Phó Tuyên Liệu không ngửi được mùi khói. Thế Phó Tuyên Liệu đâu?
Nhiều ngày nay không có trở về.
Nhưng không sao, mình muốn anh ấy quay về, nhất định anh ấy phải quay về.
Ngắn ngủi mấy tháng nay, trọng tâm cuộc sống của Thời Mông không ngừng nghiêng về một hướng, không sợ lời ra tiếng vào, dùng đủ mọi thủ đoạn.
Cậu đang cho rằng chuyện mình làm là đúng, cho nên đập nồi dìm thuyền, bất chấp tất cả, không để lại đường lui.
Nhưng bị vây nhốt hẳn là Phó Tuyên Liệu mới đúng, Thời Mông thắc mắc không hiểu, vì sao họ cứ cảm thấy mình là người bị cầm tù?
Lúc nhận điện thoại của Thời Mông, Phó Tuyên Liệu đang ngồi trong phòng riêng ở Hạc Đình, trong tiếng nhạc jazz êm tai nhàn nhã thế này đáng ra không nên phê duyệt văn kiện một cách lạc quẻ như vậy.
Cao Lạc Thành ngồi bên cạnh buồn bực chán ngán tự đánh bài một mình, liếc mắt trông thấy Phó Tuyên Liệu cúp máy liên tục 5 cuộc điện thoại là biết chuyện gì đang xảy ra.
“Lúc trước tôi còn tưởng ông nói đùa, không ngờ cậu ta ép bức quá đáng như thế thật.” Cao Lạc Thành lắc đầu nói, “Bảo sao ông không chịu ở văn phòng, chạy tới đây làm việc.”
Nghĩ đến việc tuần trước tăng ca về muộn, Thời Mông chạy thẳng tới công ty của anh, bất chấp bảo vệ can ngăn xông vào văn phòng là Phó Tuyên Liệu nhức đầu không thôi.
Nhưng ít ra làm ầm ĩ như thế còn đỡ hơn cậy mạnh chơi đùa với mạng sống. Lần trước anh nghe điện thoại của mẹ, tưởng Thời Mông sắp không xong đến nơi, trên đường lái xe quay về anh vượt mấy cái đèn đỏ, suýt nữa góp cả cái mạng của mình vào.
Phó Tuyên Liệu gác bút lại, vươn tay nhéo nhéo đầu lông mày: “Cũng chỉ có chỗ này là tĩnh lặng chút.”
Cao Lạc Thành cầm điện thoại lên: “Để tôi phái thêm mấy người trông coi dưới lầu, tranh thủ cho ông thêm vài phút yên tĩnh.”
Thật ra không phải sợ về nhà, chỉ là gần đây bận quá, hiếm khi được thảnh thơi, lại thêm chuyện đang làm trong tay có liên quan đến người đang ở nhà kia, Phó Tuyên Liệu không muốn nhìn thấy cậu, sợ phân tâm.
“Tôi là tôi thấy ông đang sợ mình mềm lòng.” Cao Lạc Thành nói trúng phóc, “Tuy rằng Thời nhị thiếu gia không cần dựa vào cổ phần để sống, nhưng chuyện này nói chung là mang tính phản bội, nếu cậu ấy là người không chấp nhận được vết nhơ ——“
“Vậy thì tốt quá.” Phó Tuyên Liệu nói tiếp, “Cho cậu ta hết hi vọng đi, tránh khỏi phiền phức.”
Cao Lạc Thành nửa tin nửa ngờ nhìn anh vài lần, vốn định nói gì đó, cuối cùng đành không mở miệng.
Dù là quan hệ bạn bè thân thiết đến mấy đi chăng nữa thì tốt nhất là không xen vào chuyện tình cảm của đối phương, tự người ta còn rối loạn không cắt đứt được, người ngoài quấy cho vũng nước đục thêm làm gì.
Hắn bèn lái chủ đề đi, hỏi chuyện hợp tác với hai mẹ con nhà họ Thời.
“Hai mẹ con nhà đó nói là đã đạt được sự ủng hộ của các nguyên lão trong tập đoàn rồi mà, còn kéo ông vào làm gì?”
Phó Tuyên Liệu nhắm mắt nghỉ ngơi, thấp giọng nói: “Thế gia đại tộc nào cũng có vài kẻ bất đồng chính kiến, lỡ họ lật mặt ngay tại chỗ, thì nhiệm vụ của nhà họ Phó chính là vạch mặt và kìm chế biến số này.”
“Ra vậy.” Cao Lạc Thành nhắc nhở, “Ông nhớ phải cẩn thận, chớ để mình bị liên lụy.”
Phó Tuyên Liệu “ừ” một tiếng, không nói nữa.
Quá nửa đêm, điện thoại của Phó Tuyên Liệu lại vang lên mấy lần, vẫn là bị cúp máy.
Cao Lạc Thành nhìn qua lịch: “Ngày mai là thứ bảy, công việc cũng xử lý gần xong rồi, ông không định về à?”
Được hắn nhắc nhở, Phó Tuyên Liệu cũng mở điện thoại ra xem lịch, xem một cái là mất mấy phút, ánh mắt rơi vào con số chỉ ngày, cả buổi trời mắt không nháy lấy một cái.
Cao Lạc Thành vươn tay quơ quơ trước mắt anh, cười nói: “Sao thế, không ngờ thứ bảy tới nhanh như vậy à?”
Phó Tuyên Liệu không cười nổi, cho dù anh đang ra vẻ thoải mái.
Mãi lâu sau, anh mới chậm rãi thu tầm mắt lại: “Không về, giờ tôi ra nghĩa trang thành phố.”
“Nghĩa trang thành phố?”
Tiếng mưa rơi ngoài cửa sổ tí ta tí tách, mùa mưa mỗi năm một lần luôn lặng lẽ tới không một tiếng động.
“Ngày mai…” Mặt Phó Tuyên Liệu không có biểu tình gì, giọng nói lại trầm xuống, “Là ngày giỗ của Thời Mộc.”
(Hạ)
Thứ bảy thứ hai của tháng bảy, Thời Mông dùng bút đỏ vẽ một vòng tròn lên chữ SAT trên lịch theo thói quen.
Hôm qua gọi cho Phó Tuyên Liệu mười cuộc điện thoại, anh đều không nhận, Thời Mông hơi bất an.
Phần bất an này biến mất trong chốc lát khi cậu kéo rèm cửa ra, nhìn thấy ngoài trời đang đổ mưa.
Thời Mông không thích trời mưa, cho nên nếu sự bất an đến từ điều này, thì cậu yên tâm rồi.
Suy nghĩ một chút cũng xác nhận bất an không cần thiết, dẫu sao thì cậu vẫn có biện pháp bắt Phó Tuyên Liệu về.
Ban ngày, Thời Mông vẽ tranh, nấu cơm cùng với Tưởng Dung. Từ sau khi cậu vào đây ở, số lần dì giúp việc tới nấu cơm ít hơn hẳn, cậu đơn phương cho rằng đó là một hiện tượng tốt, ít ra nó chứng mình rằng cậu đang được gia đình này từ từ tiếp nhận.
Chờ đến khi bố mẹ Phó Tuyên Liệu tiếp nhận cậu, thì sớm muộn gì Phó Tuyên Liệu cũng sẽ chấp nhận.
Quan niệm truyền thống này vốn được Dương Ấu Lan quán triệt, năm đó chính bà là người hùng hồn nói với Thời Mông 8 tuổi: “Chỉ cần trên người mày chảy dòng máu của Thời Hoài Diệc, ông ta chịu đón mày về nhà, thì ông ta sẽ không cho phép người ngoài dị nghị. Còn trong lòng bọn họ có thoải mái hay không, tao quản được à?”
Xuất phát từ tâm lý trốn tránh ký ức không vui, rất ít khi Thời Mông nghĩ đến mẹ, tự dưng liên tưởng đến bà qua việc này, lại còn nhận được điện thoại của bà như thần giao cách cảm, bỗng Thời Mông thấy hoảng hốt.
Nhấn nút kết nối rồi đưa điện thoại lên tai, đồng thời một tiếng sấm nổ ra, tay Thời Mông chợt run bắn, suýt chút nữa điện thoại rơi xuống.
“Sao lâu thế mới nghe máy?” Dương Ấu Lan ở đầu dây bên kia không bao giờ quan tâm tình hình của cậu, trách mắng xong là ra lệnh ngay lập tức, “Lại không tìm thấy Mộc Mộc rồi, mày mau đi tìm đi, nhất là xung quanh nhà mày, chắc nó lại chạy về đó cho xem.”
Thời Mông không nói cho bà biết chuyện mình chuyển ra ngoài, “nhà mày” trong lời bà là chỉ nhà họ Thời.
Nhà họ Phó ở trung tâm thành phố, cách nhà họ Thời khoảng 20 30 km. Bên ngoài vẫn còn đang mưa.
Thời Mông chỉ sợ đi tìm không mục đích sẽ chậm trễ, nên trước tiên cậu muốn hiểu rõ ngọn ngành: “Nó chạy ra ngoài lúc nào vậy? Mẹ tìm xung quanh chưa? Con làm bảng tên cho nó, có đeo cho nó…”
“Tao bảo là không thấy nó, bảo mày đi tìm thì mày đi ngay, nói nhảm nhiều vậy làm gì?” Không biết vì sao, giọng Dương Ấu Lan trong điện thoại run bần bật, “Mộc Mộc của tao, mày bảo tao không lo lắng thế nào đây?”
Thời Mông sửng sốt một chút.
Ngữ khí của Dương Ấu Lan ban nãy khiến cậu nhớ tới người phụ nữ trong nhà họ Thời kia, nhớ tới phản ứng của bà khi nhắc tới nỗi đớn đau mất con.
“Đều tại mày, đều tại mày không chăm sóc tốt Mộc Mộc của tao, từ lúc về nhà nó cứ chạy loạn khắp nơi, quậy phá mất dạy.”
Thời Mông nuốt nước miếng, vẫn cảm thấy ngỡ ngàng.
Có vẻ như cậu đã ngộ ra gì đó, nhưng lại không bắt được manh mối, một suy nghĩ khó tin vừa mới hiện lên, đã bị tiếng sấm nổ vang che lấp.
“Mày đi tìm cho tao, tao mặc kệ, mày mau đi tìm cho tao!” Không nghe thấy đầu dây bên kia đáp lại, Dương Ấu Lan điên cuồng gào thét, “Nếu mày dám để Mộc Mộc của tao chết lần nữa, tao lấy mày ra đền mạng!”
Cơn mưa này vẫn rơi đến tận khuya, Phó Tuyên Liệu mang một thân ẩm ướt oi bức về nhà, không muốn tắm rửa thay quần áo, anh ngồi thừ ra trên sô pha ngoài phòng khách.
Anh thích tranh thủ lúc không có ai ngồi ở đây suy nghĩ vài chuyện. Mặc dù giờ phút này đầu anh trống trơn, không suy nghĩ gì cả.
Nói đúng ra là không dám nghĩ, hồi ức cứ như hoa bồ công anh chạm vào là bay tứ tung, huống chi hôm nay lại nhìn thấy ảnh đen trắng của Thời Mộc, nghe thấy tiếng gào khóc đau khổ của Lý Bích Hạm, cảnh tượng tương tự luôn tạo nên vết hằn khó xóa nhòa trong tâm trí anh.
Gió thổi tung bụi đất phủ mờ ký ức, hình ảnh trong trí nhớ cũng dần trở nên rõ ràng nhờ nước mưa cọ rửa. Đứng trong khu mộ hoang vắng, Phó Tuyên Liệu như nghe thấy tiếng nói văng vẳng từ thinh không xa xôi, hỏi anh có còn nhớ ước định ban đầu hay không, hỏi anh sao có thể quên đi dễ dàng như vậy.
Chưa quên, anh chưa từng quên —— Một mặt Phó Tuyên Liệu trả lời như vậy, một mặt lại vội vàng lấp liếm, ngay cả khi không ai biết sự tươi sáng của ngày thứ bảy trong mắt anh đã biến mất từ lâu, nhưng anh vẫn có thể nói với chính mình ——Người an nghỉ ở đây, luôn là tình cảm chân thành của cuộc đời anh.
Thế nhưng anh không thể.
Bởi vì anh biết mình đã thay đổi, không biết bắt đầu từ khi nào.
Anh áy náy, giãy dụa, thậm chí hoài nghi cái gọi là tình cảm chân thành này rốt cuộc là sự tồn tại chân chính, hay chỉ là ảo tưởng một mình anh tạo ra.
Anh cực kỳ chán ghét bản thân, anh ddaxx quên đi hứa hẹn, để mặc chính mình sa vào vũng lầy rắc rối khác.
Ngay lúc này, cửa được mở ra từ bên ngoài, người làm xáo trộn bước đi vững vàng của anh – băm từng nhát dao vào hồi ức sạch sẽ rõ nét của anh, khiến nó trở nên nhầy nhụa bẩn thỉu, hoàn toàn biến chấti – xuất hiện trước mặt anh.
Cả người Thời Mông ướt đẫm, như dầm mưa một thời gian dài.
Cậu đứng ở cửa ra vào một lúc, khi bước vào bước chân khẽ khàng như một u hồn.
“Anh đã đi đâu vậy?” Giọng nói cũng rất khẽ.
Phó Tuyên Liệu không muốn bị làm xáo trộn nữa, anh dứt khoát đứng lên, bỏ về phòng.
Giọng nói kia không buông tha cho anh, đi tới đâu là như hình với bóng tới đó.
“Anh đi thăm Mộc Mộc có đúng không?” Thời Mông ung dung tự hỏi tự trả lời, “Mọi người đều thích Mộc Mộc nhỉ.”
Ngay sau đó, một tiếng cười ngắn ngủi rơi vào tai Phó Tuyên Liệu. “Đáng tiếc, anh ta mới là kẻ ăn cắp tranh.”
Căn phòng bên tay trái là phòng để quần áo, một tấm gương cao hai mét được lắp trên tường chỗ cửa ra vào.
Một tia chớp xẹt qua chân trời, kéo theo đó là tiếng va chạm trầm đục kịch liệt, Thời Mông chỉ kịp thở hắt ra vì kinh ngạc, ngay sau đó là bị bàn tay bóp chặt lấy cổ họng chặn đi tất cả thanh âm.
“Ai là kẻ ăn cắp tranh?” Phó Tuyên Liệu hung tợn nhìn cậu, “Cậu lặp lại lần nữa?”
Trải qua 3 tháng ở chung lạnh nhạt, Thời Mông khá hài lòng khi một lần nữa khơi dậy được sự phẫn nộ của Phó Tuyên Liệu, cậu khó khăn hé môi, yên lặng nhúc nhích đầu lưỡi, gằn từng chữ —— Thời, Mộc, là, kẻ, ăn, cắp, tranh.
Chỉ với bảy chữ ngắn ngủi, đã đủ đập tan hàng phòng ngự mà Phó Tuyên Liệu cố thủ bao năm qua, đi kèm với đó hệ thống phòng thủ anh vừa xây lên không lâu.
Trong tích tắc lửa giận đốt trụi lý trí, tro bụi bay tung khắp trời, Phó Tuyên Liệu siết chặt tay, nhìn lồng ngực phập phồng vì hít thở khó khăn của Thời Mông, anh chỉ cảm thấy da đầu tê dại, khoái cảm trả thù sôi trào trong máu.
“Là cậu ăn trộm bức tranh.” Phó Tuyên Liệu gằn mạnh, “Là cậu trộm đi bức tranh của em ấy!”
Nhân lúc vặn vẹo cổ để hít vào chút không khí, Thời Mông có sức để nói chuyện, dù chỉ là đứt quãng: “Vậy anh… cũng muốn, bắt em, đền mạng ư?”
Dưỡng khí dần dần mỏng đi, Thời Mông nghĩ trong vô thức —— Các người đều thích anh ta, đều mong anh ta còn sống, thôi thì lấy mạng tôi đổi cho anh ta vậy
Có thể nhìn ra cậu chỉ là đang gây hấn, Phó Tuyên Liệu giật mình trong giây lát, anh nhếch môi cười lạnh: “Cậu cũng xứng?”
Thời Mông cũng nhoẻn cười, rồi lại tự mình đa tình cho rằng phản ứng của Phó Tuyên Liệu là không nỡ để cậu chết.
Cậu dùng hai tay đè vai Phó Tuyên Liệu lại, liều mạng rướn về phía trước, không biết xấu hổ là gì, chỉ muốn hôn môi anh. Cơ thể bị lật úp lại đè lên mặt gương, cái lạnh truyền qua hai gò má khiến Thời Mông run cả người.
Cậu khàn giọng hỏi: “Rốt cuộc… anh thích anh ta… ở điểm nào?” Chẳng phải anh nói em vẽ tranh rất đẹp sao, vì sao anh không tin em?
Chẳng phải anh còn bảo rằng em đừng sợ, bảo rằng sẽ không có ai ức hiếp em sao?
Nhưng vì sao bây giờ em lại cảm thấy đau đớn như vậy anh ơi?
Phó Tuyên Liệu bị cậu hỏi đến sững người, ngay sau đó là một loại oán hận vì bị nghi ngờ lóe lên trong đầu.
“Tôi thích em ấy ở điểm nào, cậu không biết?” Anh tuyệt vọng nắm lấy những ký ức duy nhất khiến trái tim anh loạn nhịp, cố gắng dùng chúng để làm nổi bật sự ti tiện bỉ ổi của Thời Mông, “Em ấy dịu dàng, lương thiện, tôn trọng tôi, sẽ vẽ tranh vì tôi, sẽ chăm sóc tôi đến hừng đông, sẽ đau lòng khi tôi bị thương.”
“Em, em…”
Thời Mông muốn nói rằng em cũng thế, em cũng từng vụng trộm ngắm nhìn anh như thế, từng lặng lẽ đối xử tốt với anh như thế. Em có thể biến về dáng vẻ như xưa, thậm chí là dáng vẻ của anh ta trong suy nghĩ của anh, chỉ cần anh muốn.
Anh ta đã chết rồi, anh thích em không được à?
“Mà cậu…” Phó Tuyên Liệu không cho cậu cơ hội, nghiến răng liệt kê ra, “Cậu chỉ biết ăn cắp, chiếm đoạt, cưỡng chế, giam cầm… Và làm
những chuyện khiến người khác coi khinh.”
Nỗi sợ hãi hiện hữu bị che lấp bởi một nỗi sợ khác, bởi vì Thời Mông biết rõ, những gì anh nói toàn bộ là sự thật.’
Như không thấy dáng vẻ hiện tại của mình chật vật bao nhiêu, Thời Mông vẫn giãy dụa quay đầu lại: “Anh thao em đi, coi em như Thời Mộc mà thao cũng được.”
Cậu vội vã muốn được Phó Tuyên Liệu chiếm lấy thể xác, cậu muốn chứng minh mình còn được cần đến.
Ít ra trên thế giới này còn có người không muốn cậu chết. Thế nhưng Phó Tuyên Liệu nói rằng: “Cậu không xứng.”
Người đó dịu dàng tốt đẹp nhường vậy, há lại để đem ra so sánh với loại người ti tiện như cậu?
Cuối cùng cũng tìm ra chỗ dựa cho sự phẫn nộ bất hợp lý của mình, Phó Tuyên Liệu giật tóc Thời Mông, đè cậu lên gương, vỗ vỗ mu bàn tay lên gò má đỏ lên vì ngạt thở của cậu, dán vào tai cậu mà nói: “Nhìn cậu mà xem, trừ gương mặt này ra, thì còn cái gì đáng so sánh với em ấy?”
“Thế nhưng…” Thời Mông ho khan vài tiếng, đối mặt với Phó Tuyên Liệu qua tấm gương, khóe môi cong lên thành một nụ cười mỉa mai, “Thế nhưng, anh ra đã chết rồi mà.”
Anh ta ăn cắp tâm huyết của em, anh ta gặp báo ứng, bởi vậy rơi vào kết cục chết yểu rồi.
Vậy còn em thì sao? Em khăng khăng đoạt lại thứ thuộc về em, chiếm lấy anh bất chấp tất cả, vậy bây giờ cũng đến lúc nếm trái đắng rồi đúng không?
Sự lo lắng chìm sâu dưới đáy lòng đội đất chui lên, tranh nhau chen lấn ngoi ra ngoài, tác oai tác quái, làm Thời Mông giây trước còn không để ý đến sống chết bỗng nhiên bắt đầu sợ hãi tử vong.
Như một người biết mình đi lầm đường lạc lối nhưng không thể cứu vãn, cậu xòe năm ngón tay ra trước điểm cuối của cuộc đời, muốn bắt lấy chút gì đó.
“Nếu như em chết rồi, nếu như em cũng đã chết.” Bị đè chặt không thể nào quay người lại, Thời Mông đành phải nhìn người đứng sau qua tấm gương, “Anh sẽ nhớ đến em chứ?”
Chẳng biết tấm gương bị đụng vỡ một mảng từ lúc nào, lấy thái dương Thời Mông làm trung tâm, lan ra xung quanh như mạng nhện.
Tầm mắt Phó Tuyên Liệu rơi vào một mảnh vỡ trong đó, lạnh ngắt như ngâm trong băng tuyết.
Đôi môi mỏng xinh đẹp được Thời Mông hôn qua rất nhiều lần khẽ mở khẽ đóng.
“Thế thì phải đợi khi cậu chết, tôi mới biết được.”