Ve kêu dài thật dài, theo gió nhẹ từng trận truyền vào điện.
Cung hầu bưng một cái mâm vàng ướp băng cẩn thận nâng lên trước mặt Thái hậu, Thái hậu nhìn một cái, nói với Đại trưởng công chúa: “Gần đây khẩu vị lão phụ rất nhạt, chỉ thích cái thứ mứt hoa quả này.” Đoạn, đưa tay nhón một quả mơ từ trên miếng băng sáng long lanh, chấm một ít mật ong, cười cười: “Vừa hay trong cung còn mơ của Hoài Nam* cống, hôm qua bệ hạ mệnh chia cho điện Phi Hương ba đấu, còn lại đưa hết tới cung Nhạc An.”
*Nay thuộc An Huy
Đại trưởng công chúa mỉm cười.
Ngày hôm trước trở về từ vườn Thừa Quang, trong cung liền truyền ra tin tức, nói Đậu phu nhân điện Phi Hương đã có thai.
Dòng dõi của Hoàng đế đơn bạc, biết được việc này thì lập tức đến điện Phi Hương thăm viếng, ban thưởng cho cung nhân và bảo mẫu tất cả đồ vật.
Trên dưới phủ Tân An hầu cũng mừng lắm. Lúc trước Thái tử phi chết bệnh, Hoàng đế dần nhạt lòng, Đậu thị đã nóng vội. Ở tiệc lễ cung Diên Thọ, Đậu Khoan đặc biệt dẫn theo con gái đến đến bái kiến, Hoàng đế vẫn có thái độ nhạt nhẽo. Đương lúc thất vọng, chuyện Đậu phu nhân mang thai này không khác gì tặng than ngày tuyết.
Đại trưởng công chúa cũng nhón một quả từ trong mâm, dường như không chú ý: “Trời nóng, ăn mơ là vừa hay ạ.”
Thái hậu biết bà mới tới từ điện Phi Hương, cũng không nói gì, chỉ nâng tay bỏ mơ vào trong miệng.
“Công chúa hôm qua không phải nói miệng khô ạ? Cũng ăn ít mơ mới được ạ.” Bên dưới, nhũ mẫu của Vương Mật nhẹ giọng khuyên nhủ Vương Mật mãi không mở miệng.
Thái hậu trông, chỉ thấy trong tay nhũ mẫu bưng mâm băng, Vương Mật lại quay mặt qua chỗ khác, không chịu động thủ.
“A Mật làm sao thế?” Thái hậu chậm rãi hỏi.
Nhũ mẫu làm lễ với Thái hậu, khuôn mặt lo âu bẩm: “Công chúa hai ngày này ăn rất ít ạ.”
“Hử?” Thái hậu nhìn thần thái Vương Mật, cũng cảm thấy có chút uể oải, khẽ nhíu mày: “Đã triệu y quan chưa?”
“Con chỉ không chịu nổi nắng nóng, không có bệnh gì đâu ạ.” Vương Mật bất mãn liếc nhũ mẫu một cái, nói khẽ với Thái hậu.
Thái hậu nhìn nàng, suy nghĩ một lúc, chốc lát sau, lại quét ánh mắt về phía Đại trưởng công chúa.
“Mơ làm tiết nước miếng, giờ A Mật ăn nhiều thêm mới được.” Chỉ thấy Đại trưởng công chúa lại cười nói với Vương Mật, giọng mềm mại.
***
“Tạ khanh.” Trong cung Thúy Vi vườn Thừa Quang, Hoàng đế ngồi ngay ngắn bên trên, đưa hai mắt dò xét Tạ Trăn trước mặt.
“Hôm qua trẫm đã duyệt qua sớ của Tạ khanh dâng, rất thú vị.” Một lát sau, Hoàng đế cho tả hữu lui xuống, đi thẳng vào vấn đề nói, giọng chậm rãi.
Tạ Trăn lường trước đến đây hẳn là vì chuyện dâng sớ kia, hạ thấp người nói: “Bệ hạ quá khen.”
Hoàng đế nói: “Khanh cho rằng, Nhữ Nam vương có thể bị tước chức?”
Tạ Trăn đáp: “Có thể ạ.”
Ánh mắt Hoàng đế lướt qua mặt Tạ Trăn, khóe môi cong cong: “Trẫm muốn nghe thử Tạ khanh tự mình thuật lại.”
Trong lư hương, khói nhẹ nhàn nhạt bay lên, bốn phía im lặng, càng thêm yên tĩnh.
“Thưa vâng.” Tạ Trăn ngồi thẳng, nói: “Như lời nói trong sớ. Thần cho rằng, Nhữ Nam vương phát triển thành thế lực, căn do là ở việc buôn muối lậu, và có hai chuyện.”
Hoàng đế không nói.
Tạ Trăn ung dung không vội: “Theo thần biết, Ba quận núi cao sông dài, người dân đa số là nghèo, lâu dài đã bán muối sang Trung Nguyên để trao đổi. Thời tiên đế, triều đình cấm buôn lậu muối, kế này bị đứt đoạn, người dân đã từng phản kháng nhiều lần. Sau khi Nhữ Nam vương đến Ba quận, cấu kết với bọn thủ lĩnh, tự mở mỏ muối, chia lợi nhuận cùng người dân, thế là người dân vì đó mà phục, đây là một; Nhữ Nam vương tự chiêu quân mãi mã, song kinh phí để nuôi quân quá lớn, trong đó phần lớn là đến từ điều này, đây là hai. Nếu cắt đứt được lợi nhuận buôn muối lậu của Ba quận, Nhữ Nam Vương tất có thể tước vị.”
Nói xong, quanh mình quay về yên tĩnh.
Hoàng đế vẫn nhìn Tạ Trăn, thần sắc nhàn nhạt.
“Muối lậu.” Y lo lắng nói, thân thể tựa trên kỉ, bưng một cái chén trà bạch ngọc lên, nhấp một miếng trà. Một lát sau, lại nói: “Tạ Vân Tạ Trọng Đức là người trong tộc khanh à?”
“Đúng ạ.” Tạ Trăn nói: “Ông ấy chính là bác trong tộc nhà thần, từng nhậm chức quận trưởng Ba Quận, năm trước đã qua đời.”
Hoàng đế nhàn nhạt cười cười: “Trẫm nhớ năm đó lúc ông thôi chức, từng dâng sớ với tiên đế, cũng nói thế này. Tiên đế theo lời lập chức Diêm vụ sử, liên hợp với châu quận chung quanh nghiêm truy xét chuyên buôn lậu muối, hiệu quả lại quá mức bé nhỏ.”
Tạ Trăn cũng cười yếu ớt: “Cái nhìn của thần vừa hay tương phản bác ấy.”
“Ồ?” Hoàng đế ngước mắt.
Thần sắc Tạ Trăn tự nhiên, giọng du dương: “Thần cho là, nếu bệ hạ thuận theo đạo mà đi, đưa lợi của muối Ba Quận cho dân bản địa, tất sẽ là làm ít mà công to.”
Lúc Cố Quân bước vào cung Thúy Vi, Hoàng đế đang đứng trên một góc điện đài, nhìn trong đình, như đương suy nghĩ sâu xa.
“Bệ hạ.” Cố Quân hành lễ.
Hoàng đế quay đầu nhìn thấy hắn, cười cười.
“Quân thấy Tạ Trăn này thế nào?” Hoàng đế ngồi xuống trên chiếc ghế bên cạnh, bỗng nhiên hỏi.
Cố Quân khẽ giật mình, nói: “Thần và Tạ nghị lang không quen nhiều.”
Hoàng đế mỉm cười: “Người này không tệ. Dù đơn bạc, nếu được cọ xát, hẳn là đại tài.”
Cố Quân nhìn y, không nói tiếng nào.
“Mới rồi cậu cùng y quan đi qua vườn Trân à?” Chốc lát sau, Hoàng đế hỏi hắn.
“Đúng vậy ạ.” Cố Quân nói.
“Thế nào?”
Cố Quân lấy ra từ trong tay áo một cái bao vải nho nhỏ, mở ra, nói: “Thần mời y quan đưa chỗ đồ ăn dư mà voi ăn đi kiểm tra thực hư, phát hiện có trộn thứ vật này.”
Hoàng đế nhìn kỹ bao vải kia, chỉ thấy bên trong chỉ có một ít phiến lá vụn vặt nhỏ tí, tàn khuyết không đầy đủ, trên lưng lá mọc màu đỏ tía điểm lấm tấm.
“Đây là thứ gì?” Hoàng đế không hiểu.
“Ban quỳ đỏ ạ.” Cố Quân nói: “Voi ăn vào, thấy đồ màu sắc sặc sỡ rêu rao thì phát cuồng.”
Hoàng đế ngẩng đầu nhìn hắn, ánh mắt dần tụ lại.
Cố Quân tiếp tục nói: “Vật này ở trong đồ ăn có rất ít, tuỳ tiện là không phát hiện được, lại đủ để khiến voi cống trúng độc.”
Hoàng đế trầm ngâm, nhăn lông mày: “Có khảo vấn mấy tên thổ dân chưa?”
Cố Quân nói: “Đã khảo vấn rồi, thổ dân chỉ kêu là oan uổng.”
“Lúc đi qua đồng mương đến võ đài xem đua ngựa, lại đi qua đồng mương mà về lại, trên đường qua vườn Trân… Nếu lúc đó trẫm và Thái hậu xuống thuyền, ắt gặp tai vạ bất ngờ.” Thật lâu sau, y nhìn về phía Cố Quân, chợt cười lạnh: “Nắm vừa hay, so với tháng trước lại chẳng có gì sai biệt.”
Cố Quân không nói.
“Việc này chớ để lộ.” Hoàng đế thở sâu, nói thật nhỏ.
Cố Quân gật đầu: “Thần biết ạ.”
Hoàng đế cảm thấy có phần ủ rũ, đưa tay xoa xoa bên cạnh trán, tựa trên giường, nhắm lại hai mắt: “Phủ Thần hôm nay cũng mệt nhọc, trở về đi.”
Cố Quân hành lễ, quay người rời đi.
“Phủ Thần.” Hắn vừa đi được hai bước, Hoàng đế bỗng nhiên cất tiếng. Cố Quân quay đầu, chỉ thấy Hoàng đế nhìn hắn: “Sao cậu lại nghĩ đến chuyện voi cống bị hạ độc?”
Cố Quân ngẩn người, một lát sau, bên tai bỗng nhiên nóng lên, cười cười.
Hoàng đế nhìn hắn, ánh mắt dần dần nghiền ngẫm.
“Đi đi.” Y cong môi lên, vung tay lên, quay đầu đi.
Quán Loan Âm phố Chương Đài, ở nơi kinh thành là một chốn danh khí không nhỏ. Trong quán rất đông nạp kỹ, ưu nhân ca múa không phải là ít, mỗi ngày trước cửa ngựa xe như nước, người lui tới không thiếu nhà hào phú thế gia.
Quán chủ Lý Hoàn là người đàn ông hơn bốn mươi, thân thể mập mạp, lại trời sinh có một khuôn mặt ôn hòa tươi cười, để nghênh đón, thì rất hợp nhân duyên. Ngày hôm đó, như sáng sớm mỗi ngày, ông ta xem xét bốn phía, lênh người hầu quét tước sạch sẽ, đốc xúc chúng kỹ trang điểm cho thỏa, lại sửa sang tất cả đồ dùng cho chỉnh tề, đến ban chiều mới mở cửa đón khách.
Có lẽ là thời tiết oi bức, mấy ngày nay khách tới không bằng thường ngày, đến tận hơn nửa giờ Mùi, mới thấy một người bước vào trong quán.
Lý Hoàn thấy người kia cũng xêm xêm tuổi mình, thân mảnh áo đay, như là trang phục chưởng sự nhà quyền quý. Ông ta cười, tiến ra đón chào: “Lý Hoàn của quán Loan Âm, không tiếp đón từ xa.”
Người tới vội trả lễ, giọng hoà thuận: “Ra là chủ nhân, mỗ mạo muội rồi.”
Đoạn, người kia tao nhã nói: “Chủ nhân nhà tôi gần đây thiết yến kết bạn, muốn mời ca kỹ của quý quán trợ hứng.”
Lý Hoàn gật đầu, mặt tươi cười: “Không biết quý chủ nhân có chỉ định ai không?”
Người kia gật đầu, nói: “Gia chủ nói, đầu năm từng nghe qua ở quý quán một lần, cảm thấy rất nhớ nhung, nhớ là trong tên có mang chữ ‘Thiền’.”
“Trong tên có chữ ‘Thiền’ à?” Lý Hoàn kinh ngạc, nghĩ ngợi, một lát sau, hiểu ra: “Có phải là Phó Thiền không?”
Người kia cười ngượng ngùng, nói: “Mỗ chỉ được chủ nhân bàn giao, thực sự không biết…”
Lý Hoàn cười nói: “Nhất định là cô ả rồi. Chúng kỹ của tế quán, chỉ có ả có chữ ‘Thiền’.” đoạn, vẻ mặt lại áy náy: “Chỉ là hai ba tháng trước Phó Thiền đã được chuộc vào phủ Ôn Thị lang, không mời được ạ.”
Người kia vô cùng ngạc nhiên: “Vậy làm thế nào cho phải đây?”
Lý Hoàn vội nói: “Túc hạ đừng vội. Trong tế quán còn hơn hai mươi ca kỹ, không thiếu người xuất sắc, túc hạ có thể chọn người khác.”
“Chọn người khác à?” Người kia cau mày một cái: “Gia chủ nói ca kỹ này có làn giọng khác hẳn người khác, nên yêu thích, chỉ sợ…”
Lý Hoàn cười ha ha: “Thì ra là thế. Phó Thiền chính là người Giao Đông, nên khác hẳn với ca kỹ trong kinh, tế quán tuy không có ca kỹ Giao Đông*, lại vẫn có hai ca kỹ Giao Tây*, giọng tương tự, hay là thay ạ?”
*Giao Đông là phía Đông sông Giao, Giao Tây thì ở phía tây, nay thuộc tỉnh Sơn Đông, gần với Hàn Quốc Nhật Bản.
Người kia cười khổ: “Việc này mỗ nói không chắc được, còn phải hỏi qua ý tứ chủ nhân đã.”
Lý Hoàn gật đầu, vái chào thật sâu: “Làm phiền túc hạ bẩm lại, nếu quý chủ nhân không yên lòng, tế quán có thể đưa hai ca kỹ đến phủ thượng để quý chủ nhân thử nghe ca một khúc.”
Mặt người kia trông vẻ vui cười, hoàn lễ: “Đa tạ quán chủ nhân, mỗ từ biệt trước.”
Ôn Phục đi ra phố Chương Đài, đi thẳng về phía trước, đến một nơi cửa ngõ, nhìn bốn phía, đi vào.
Trong ngõ hẻm, một cỗ xe đen lẳng lặng ngừng lại.
Ôn Phục đi lên trước, làm lễ trước màn xe: “Công tử.”
“Nghe ngóng rõ chưa?” Một giọng nói truyền ra từ bên trong.
“Rồi ạ.” Ôn Phục lau mồ hôi, thấp giọng nói: “Nhân sĩ Giao Đông.”
Người trong xe trầm ngâm, một lát sau, nói: “Đi thôi.”