Nhặt Được Vương Phi Mê Tiền Vô Độ

Chương 938: Cái giá của máu (1)



Đổi tướng trước khi trận chiến bắt đầu3 không phải là hành động sáng suốt củ2a đấng minh quân.

Triệu Miên 0Trạch căm ghét sự kém cỏi của Ô Thành0 Khôn nhưng lại chẳng thể làm gì ông 3ta.

Sau chính sách mang tính tiêu diệt ở triều Hồng Thái, số tướng lĩnh mà Triệu Miên Trạch có thể sử dụng hiện nay không nhiều. Lương quốc công Từ Văn Long, Thành quốc công Nguyên Hồng Trù, Định An hầu Trần Đại Ngưu, đại tướng quân Trần Cảnh… đều có qua lại với Triệu Tôn nên hắn ta thấy không yên tâm. Tuy Ô Thành Khôn có muôn vàn điều không đúng, nhưng lại là một lão tướng chinh chiến sa trường lâu năm, từ triều Hồng Thái đánh đến triều Kiến Chương, kinh nghiệm trên chiến trường vô cùng phong phú... Quan trọng hơn thảy là ông ta là người của Triệu Miên Trạch.

Tháng bảy năm Kiến Chương thứ hai, tấu sớ từ phía Bắc vẫn gửi về kinh sư tới tấp, Triệu Miên Trạch không thể không giả điếc, không những không trị tội quân đội kinh sư làm xằng làm bậy, mà con khen Ô Thành Khôn “lập nhiều công lao”, tăng bổng lộc, hứa tước vị, thưởng vàng bạc, tặng ngựa tốt...

Dung túng cho binh lính làm điều ác, tạo phiền hà cho dân. Từ đó, hình tượng “quân vương nhân hậu” mà Triệu Miên Trạch gây dựng đã lâu bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhất là trong tình hình Tấn vương tỏ ra yếu thế hơn thì hành động áp bức của hắn ta trông càng quá đáng. Kẻ đồng tình Triệu Tôn quyên đồ quyên lương thực nhiều vô số kể, nhất là vài phiên vương sợ “môi hở răng lạnh”, họ đồng loạt xuất binh hưởng ứng theo Triệu Tôn.

Tháng tám năm Kiến Chương thứ hai, quân của Ô Thành Khôn đến Bắc Bình.

Ngôi thành trì cổ xưa “sản phẩm phong phú, dân cư an lạc, đạo tặc vắng bóng” này phải đối mặt với một sự thử thách rất lớn.

Ánh trời chiều nấp mình dưới đường chân trời, gió mùa thu se lạnh.

Sau vài ngày u ám nặng nề, vào hôm binh sĩ của Ô Thành Khôn đến Bắc Bình, bầu trời lại đổ mưa to bất thường. Cứ như làm điểm nhấn cho sự giết chóc và máu tanh sắp đến, màn mưa và bầu trời nối thành một đường, chưa đến giờ Thân mà sắc trời đã tối như đêm xuống.

Ầm ầm!

Ầm ầm!

Từng tiếng sấm lớn vang rền bên tai, mang theo tiếng gào thét bực bội và đè nén chấn động phủ Bắc Bình. Trong tiếng “đì đùng”, tia chớp chói mắt không hề tỏ ra yếu kém, nó xé toạc bầu trời đen ngòm như mực ra thành từng lỗ, trông hệt như từng con mãnh thú hung tợn đang há cái mồm to như chậu máu của chúng, để lộ bộ mặt hung ác nhìn những người bị chiến tranh uy hiếp, muốn thừa cơ đoạt lấy tính mạng của họ.

Khi quân kinh sư đến phủ Bắc Bình, họ thay vẻ cường thế lúc ban đầu, chỉ bao vây thành trì chứ không hề tấn công. Ô Thành Khôn tham công tự đại dường như cũng cẩn thận hơn, biết rõ quân Tấn chỉ có vài vạn người, không thể nào đánh lại vài chục vạn quân kinh sư nhưng vẫn không “ỷ mạnh hiếp yếu”, mà còn sai sứ giả gửi thiếp bái phỏng cho Tấn vương.

Trong tấm thiếp trừ việc nói về lòng ngưỡng mộ đối với Tấn vương ra, ông ta còn bày tỏ cho dù là quân kinh sư hay quân Tấn thì mọi người đều là “người một nhà”, có thể không đánh nhau thì không nên đánh, giải quyết hòa bình mới là phương án tốt nhất. Nếu không, một khi chiến sự bùng lên, bách tính chịu khổ, sinh linh lầm than, tòa thành Bắc Bình nổi tiếng nghìn năm này cũng sẽ bị hủy hoại chỉ trong chốc lát, đó là kết quả không một ai muốn nhìn thấy. Tất nhiên, ông ta cũng có điều kiện: Triệu Tôn mở cổng thành, đồng ý triệt phiên, theo ông ta về kinh sư chịu thẩm tra sẽ tránh được chiến sự.

Cuối thư, Ô Thành Khôn còn bày tỏ sẽ cho Triệu Tôn thời gian hai ngày để suy nghĩ.

Nếu hai ngày sau cổng thành Bắc Bình vẫn không mở, quân kinh sư sẽ tiến hành công thành.

Mưa to như trút nước suốt một đêm, vẫn không có dấu hiệu tạnh.

Đến trưa ngày hôm sau, mưa mới nhỏ dần đi, gió cũng ngừng thổi. Hạ Sơ Thất dắt tay Bảo Âm bước trên nền đất đọng nước đi về phía thư phòng. Từ sau buổi tối hôm về phủ, Triệu Tôn vẫn luôn ở suốt trong thư phòng, ngay cả ăn cơm ngủ nghỉ vẫn không rời nửa bước, nghe Trịnh Nhị Bảo nói, trong khoảng thời gian đó ngoại trừ những lúc thương thảo đối sách với vài chủ quản quân sự ra thì hắn chỉ ngồi một mình thất thần.

“Vương phi, cẩn thận một chút…”

Tinh Lam cầm một cây dù to, đi bên cạnh nàng, vừa lo cho nàng vừa lo cho Bảo Âm.

“Ta không sao, làm gì yếu đuối đến thế.”

Hạ Sơ Thất bế Tiểu Bảo Âm, xông ra màn mưa, nhảy qua máng xối nước ngay cửa thư phòng, lấy tay áo lau hơi nước trên đầu bé con, sau đó nghiêng đầu nhìn Trần Cảnh đang đứng như một bức tượng trước cửa thư phòng.

“Trần đại ca, hôm nay huynh đứng ở đây à?”

Ngày thường đều là Giáp Nhất đứng canh, nàng thấy hơi kỳ lạ.

Trần Cảnh gật đầu, không nói nhiều, chỉ có điều đôi con ngươi hơi tối màu đi, “Vương phi đến tìm gia?”

Hạ Sơ Thất cong môi, liếc nhìn Tinh Lam, Tinh Lam hiểu ý tiến lên, đứng trước mặt Trần Cảnh.

“Gia ở bên trong?”

“Ừ.” Trần Cảnh né tránh ánh mắt của nàng ta.

Tinh Lam nhìn thoáng quá sắc mặt của Hạ Sơ Thất, không dám “trọng sắc khinh chủ”, thế là bèn sầm mặt xuống.

“Gia không nói không cho phép vương phi và tiểu quận chúa vào chứ?”

Trần Cảnh nhìn nàng ta, y thấy hơi đau đầu.

Nhưng dường như không ai dám làm chuyện “trọng sắc khinh chủ”.

Y chỉ “ừ” bừa một tiếng rồi bắt đầu đánh trống lảng.

“Trời đổ mưa to, mọi người về trước đi, coi chừng nhiễm lạnh…”

“Trần đại ca!” Tinh Lam khẽ gọi một tiếng, bỗng nhiên nắm lấy cánh tay y.

“Ta có vài câu muốn nói với huynh.”

“Câu gì?”

Tinh Lam mím môi, cười híp mắt.

“Huynh qua đây là biết.”

Trần Cảnh sửng sốt, y biết rõ lúc này không thể tự ý rời đi, nhưng mùi thơm dịu dàng như hoa lan của người con gái trước mặt bay vào mũi, nó bóp chết sức chống cự của y. Hạ Sơ Thất tặng cho Tinh Lam một nét mặt khen ngợi, nàng mở to đôi mắt giăng đầy tơ máu sau đó cười thản nhiên:

“Sau này khi hai người thành hôn, nhất định ta sẽ tặng một phần đại lễ.”

Nàng đưa tay của Bảo Âm cho Tinh Lam rồi bước vào cửa thư phòng.

“Vương phi…” Trần Cảnh hơi nhíu mày.

Vào lúc y do dự, Hạ Sơ Thất hừ mũi rồi đẩy cửa bước vào.

Trên chiếc bàn bằng gỗ tử đàn cực lớn có bày một ván cờ đang dở dang, bên bàn cờ là tấm thiếp của Ô Thành Khôn. Chỗ niêm phong đã bị cắt, vết cắt rất gọn gàng, có thể nhìn ra người cắt nó có tâm trạng bình tĩnh. Triệu Tôn đang ngồi im lặng trên chiếc ghế to sau, quần áo trên người sạch sẽ, đầu tóc gọn gàng, ngoại trừ khuôn mặt hơi tiều tụy ra thì thần sắc vẫn ung dung và thoải mái như cũ.

Trong thư phòng rất tối, đốt một ngọn nến, chỉ có một mình Triệu Tôn nên trông hơi quạnh quẽ. Không khí lạnh và mùi tinh dầu hòa quyện xông vào mũi, nhanh chóng thấm vào tim rồi lan ra khắp tứ chi.

Nàng bỗng dưng hắt hơi, “Thư phòng lạnh như thế, sao chàng không về phòng?”

Triệu Tôn nhìn nàng bước đến gần bàn.

“Trần Cảnh cho nàng vào à?”