Nhất Nộ Bạt Kiếm

Chương 3: Sự Xuất Hiện Của Vịt Què Chân



Suýt nữa Vương Tiểu Thạch đã chửi bới loạn cả lên.

Vẻ điềm đạm của gã đã không còn.

Lại càng không còn tính nhẫn nại.

Ôn Nhu đòi đến giúp công việc trong tiệm. Gã vốn không bận rộn gì lắm, nhưng Ôn Nhu vừa tới, gã liền trở nên bận rộn thật sự, bởi vì trong nửa canh giờ ngắn ngủi, tổng cộng nàng đã lật đổ nghiên mực của gã hai lần, vấy bẩn ba bức tự họa, xé rách một tấm vải lụa, đánh vỡ ba bình thuốc, một siêu thuốc, hai vại thuốc.

Ôn Nhu còn đưa nhầm phương thuốc cho bệnh nhân khác, nếu không phát hiện sớm, rất có thể đã xảy ra án mạng. Mà Ôn Nhu cũng thật là có tài hơn người, cùng lúc có thể đạp trúng con mèo già trong tiệm khiến nó kêu lên tám tiếng thảm thiết, rồi lại đạp trúng một bệnh nhân bị bồ cào làm bị thương gót chân, hơn nữa trong lúc người và mèo cùng kêu hoảng, nàng còn va phải một thai phụ đã mang thai đến mười tháng đang uống thuốc an thai, còn những chuyện đổ vỡ khác, không sao tính xuể.

Vương Tiểu Thạch suýt nữa phải quát nạt nàng.

Chỉ là “suýt nữa”.

Gã vẫn chưa…

Ôn Nhu đã dẩu môi, nhíu mày, cơ hồ như muốn bật khóc đến nơi…

Mà thực ra, nàng đã khóc rồi…

Thế là Vương Tiểu Thạch càng bận rộn hơn.

Cơ hồ bận đến tối mặt tối mũi.

“Muội đừng khóc, tại sao muội khóc? Muội đừng khóc, được không? Muội đừng khóc, người ta tưởng ta bắt nạt muội!” Gã vừa giải thích với Ôn Nhu, lại còn phải xin lỗi người đàn bà mang thai mắng gã là “đồ d͙â͙m͙ đãng” vì trong lúc luống cuống gã đã lấy khăn ra lau nước thuốc trên người chị ta.

“Huynh mắng người ta!”

“Ta đâu có mắng!” Vương Tiểu Thạch hoảng hốt giẫm chân bình bịch, bởi vì nơi cửa lại xuất hiện thêm một người cánh tay bị thương ít nhất ba chỗ, “Ta vẫn chưa mắng mà!”

“Nhưng, huynh, huynh, huynh, huynh, huynh huynh huynh…” Ôn Nhu bật khóc òa lên: “Huynh đã thay đổi sắc mặt với người ta rồi!”

Hoa lê dầm mưa.

Trông thật thê lương.

Vì thế, những người xung quanh, nhất là người vừa mới bước vào, chưa hiểu sự tình, đều lên tiếng chỉ trích Vương Tiểu Thạch sai trái.

Vương Tiểu Thạch mang nỗi oan không thể nói thành lời, chỉ đành hạ giọng van xin: “Muội đừng khóc nữa!” Ôn Nhu “òa” lên một tiếng, khóc càng lớn hơn, Vương Tiểu Thạch chỉ đành nhích lại gần nàng thêm chút nữa, van vỉ: “Muội đừng khóc nữa được không?”

Đột nhiên, bỗng nghe tiếng “hích hích”, không ngờ Ôn Nhu đang khóc bỗng cười, dung mạo đẹp tựa giọt sương long lanh của nàng lại càng thanh lệ đáng yêu bội phần, Vương Tiểu Thạch nhìn mà không khỏi bần thần cả người. Chỉ nghe Ôn Nhu trách móc: “Sau này còn dám bắt nạt người ta nữa không?”

Vương Tiểu Thạch lẩm bẩm: “Muội không bắt nạt huynh đã tốt lắm rồi.”

Ôn Nhu nghe không rõ, nhíu mày hỏi: “Huynh nói gì?” Vương Tiểu Thạch hoảng hốt nuốt nước bọt ba bốn lần, vội nói: “Huynh có nói gì đâu.”

Ôn Nhu nghiêng đầu nhìn gã lom lom, Vương Tiểu Thạch bị ánh mắt nàng chiếu tướng đến nỗi lúng túng, hai má bắt đầu nóng lên.

“Thật chứ?”

“Thật!”

“Không gạt muội chứ?”

“Muội đừng nhìn ta như vậy được không?”

“Thế nào? Không nhìn được sao?”

“Không phải không được…” Vương Tiểu Thạch chỉ đành thở dài.

“Thế thì làm sao?” Ôn Nhu vẫn không tha cho gã.

“Muội có biết mình là nữ nhi hay không?” Vương Tiểu Thạch đành nói.

“Nữ nhi? Nữ nhi thì không thể nhìn người ta sao?”

“Muội không biết bộ dạng muội…” Vương Tiểu Thạch cảm thấy mình như bị người ta bức cung.

“Bộ dạng của muội?” Ôn Nhu lại nghiêng đầu, cười gian hoạt như con tiểu hồ ly, hai tay bắt sau lưng, mười ngón đan với nhau, hất hàm hỏi: “Bộ dạng của muội thế nào?”

Lúc này, lại có một người bị thương, cổ tay trái bị trật khớp, Vương Tiểu Thạch như bắt được vàng, vội vàng chạy đến cứu chữa.

Ôn Nhu vẫn chưa chịu thôi, cũng chạy tới, dòm ngó một hồi chán chê, rồi vỗ vai Vương Tiểu Thạch, nói: “Tiểu Thạch Đầu, huynh có biết hôm qua muội đến chỗ Lão A Phi chơi, hắn thế nào không?”

Vương Tiểu Thạch hạ giọng nói: “Ồ, hôm qua muội đến tìm huynh ấy chơi sao?”

Ôn Nhu lại không nghe rõ, ghé bộ mặt tươi cười lại gần nói: “Ừ?”

Vương Tiểu Thạch chỉ ngửi thấy một làn hương thơm tho tựa hoa lan hoa huệ mà thực ra là hương hoa gừng dại vương trên tóc nàng, ngọt ngào đến tận tâm phế, chỉ nói: “Không có gì!”

Ôn Nhu bực dọc hỏi: “Sao các người nói chuyện đều thẽ thà thẽ thọt thế nhỉ?” Vương Tiểu Thạch bất cẩn, dùng sức hơi mạnh quá, người bị thương chỉ “hự” lên một tiếng, đau nhưng không kêu ca gì, Vương Tiểu Thạch vội vàng xin lỗi, lại nói: “Huynh ấy cũng nói với muội như thế à?”

Vương Tiểu Thạch lại quay sang kiểm tra cho một bệnh nhân khác bị trật khớp gối, thấy Ôn Nhu không trả lời, bèn nói: “Cái gã biết bay ấy!”

“Huynh còn nói nữa!” Ôn Nhu vừa nói đến y liền nghiến răng kèn kẹt: “Huynh có biết hôm qua A Phi nói gì hay không? Hắn bảo muội không được nhìn hắn kiểu ấy nữa, còn nhìn kiểu ấy, hắn sẽ ăn thịt muội. Cái tên này, chắc là đói phát điên rồi, ngày nào cũng bận rộn việc trong lâu, hệt như huynh, chẳng còn giống người chút nào nữa rồi.”

Vương Tiểu Thạch lẩm bẩm: “Muội không thấy sao? Ta bận thật mà.” Vừa khéo lại có một người bị thương ở cổ bước vào, nhưng người này nhịn đau, chẳng hề rên rỉ một tiếng, vừa nhìn đã biết chắc chắn là giang hồ hảo hán kiếm sống trên đầu đao mũi kiếm, chẳng biết đau đớn là gì.

Ôn Nhu phùng má lên nói: “Các người ai cũng bận rộn cả, chỉ có ta không bận, chẳng việc gì làm!”

Vương Tiểu Thạch làm ra vẻ thoải mái: “Vậy muội cứ đi tìm nhị ca mà chơi.”

Ôn Nhu lộ rõ vẻ khinh thường ra mặt: “Muội không thèm, bộ dạng lo lắng cho nước non của hắn, hệt một kiểu với bộ dạng lo bò trắng răng của đại sư ca, đúng là trời sinh một đôi, họ tự chơi với nhau rồi, suốt ngày chỉ biết sách vở, mỗi lần nói chuyện đều là chiến lược gì đó, người nào cũng phải lo trước cái lo của thiên hạ, kiếp này đừng có hòng mà được vui vẻ lấy một lần.”

Ôn Nhu nói lung tung một hồi, lại trở nên vui vẻ, bộ dạng lấy làm nghênh ngang tự đắc: “Chỉ có bổn tiểu thư thông minh, biết vui trước cái vui của thiên hạ mà thôi.”

Vương Tiểu Thạch cố nhịn cười, bởi vì gã đang nắn xương cho người ta, tuy đã quen thân rồi, nhưng Ôn đại tiểu thư này hỉ nộ vô thường, gã không thể bật cười được, kẻo nàng lại hiểu lầm rằng, gã đang cười vào sự bực tức của nàng, vậy nên gã chỉ nói: “Sao muội không đi tìm Lôi cô nương?”

“Tỉ ấy hả?” Ôn Nhu lo lắng nói: “Từ sau đêm hôm ấy…” Nói tới đó, nàng đột nhiên im bặt đưa tay bịt miệng mình, bộ dạng như lo sợ bị người ta trách phạt.

Vương Tiểu Thạch nhíu mày: “Thế nào?”

Ôn Nhu hạ tay xuống, bộ dạng lại trở nên nghiêm túc đoan trang: “Không có gì.”

Vương Tiểu Thạch thấy vậy cũng không để tâm đến lời của nàng cho lắm.

Gã chỉ để tâm tại sao lúc này người đến nhờ cứu chữa lại càng lúc càng đông, hơn nữa đều là tứ chi trật khớp.

Xem ra không phải bất cẩn mà bị thương, rõ ràng là bị người ta đánh cho chấn thương, trật khớp.

Loại vết thương này không khó trị, mà thuật nối xương của Vương Tiểu Thạch vốn rất cao minh.

Người bị thương đều cố chịu đau.

Người ra tay cũng không quá nặng.

Có điều tại sao đột nhiên lại có quá nhiều người bị thương thế này?

Xem ra những người này đều là nhân vật giang hồ, chẳng lẽ bang phái nào trong Kinh thành lại đánh nhau?

Gã đang thầm thắc mắc, đột nhiên thấy một thư sinh mặt mày thanh tú nhởn nhơ bước vào, trong tay phe phẩy cây quạt giấy, nhìn thần thái của y, tựa như đến đây dạo chơi chứ không phải khám bệnh.

Vậy mà y lại gào lớn lên: “Anh hùng sợ bệnh, tài tử lo tật, đại phu ở đâu? Ta đến khám bệnh đây.”

Y vừa bước vào, đại bộ phận các “bệnh nhân” đều cúi đầu, bước ra, trong mắt đầy vẻ tức giận.

Vương Tiểu Thạch để ý thấy, những “bệnh nhân” vừa bước ra ấy, đều là mấy người bị thương.

Gã cũng phát hiện ra thanh niên thư sinh đó mặt mày sáng láng tựa quan ngọc, trông bộ dạng này sợ rằng cả đau bụng cũng chẳng bị, nói gì đến bị thương.

Hơn nữa gã còn phát hiện tên thư sinh này khi bước vào, lại nheo mắt với Ôn Nhu, khóe miệng Ôn Nhu không ngờ cũng nhoẻn miệng nở một nụ cười ngọt ngào, gật đầu hiểu ý.

Trong lòng Vương Tiểu Thạch nổi lửa.

Gã cũng không biết rốt cuộc tại sao đột nhiên mình không kìm được cơn giận.

Gã rất giận.

Cực kỳ giận dữ.

Đúng lúc ấy, thanh niên thư sinh bước đến chỗ tường xem mấy bức tự họa, xem từng bức một, hệt như nơi này là nhà của y.

“Chữ đẹp, chữ đẹp!” Giọng gã thư sinh như thể một bậc danh gia giám thưởng: “Chữ này viết tựa như ôm đàn ngà say, miệng ngâm vịnh chân chậm bước, Kê Khang 1 chẳng màng sự đời, chân tình lồ lộ ra trong nét chữ.”

Vương Tiểu Thạch bèn nói: “Hảo nhãn lực, hảo nhãn lực!”

Thư sinh quay đầu, hơi khom người nói: “Nói hay, nói hay!”

“Đáng tiếc đó không phải là chữ của Kê Khang, mà là thư pháp của Chung Do 2, chữ của ông ta thẳng như vân hạc du thiên, quần hồng hí hải, rất nổi tiếng.” Vương Tiểu Thạch bổ sung: “Chỗ này ánh sáng không được tốt lắm, ngươi vẫn còn nhìn ra được mấy bức treo trên tường là thư pháp chứ không phải tranh vẽ, nhãn lực như thế cũng là khá lắm rồi, nhưng đáng tiếc vẫn chưa nhìn rõ được tên đề bên dưới.”

Gã thư sinh không ngờ cũng chẳng đổi sắc mặt: “A ha, chữ của Chung Do, chữ của ông ta, càng lúc càng giống Kê Khang rồi, ha ha! Chữ đẹp như thế này, treo ở nơi tăm tối, chẳng khác nào hoa lài cắm bãi phân trâu, chẳng ra sao, chẳng ra sao cả.”

Vương Tiểu Thạch đanh mặt nói: “Ngươi tới đây làm gì?”

Thư sinh liền hỏi ngược lại: “Ngươi làm gì ở đây?”

“Ta khám bệnh,” Vương Tiểu Thạch chỉ bức tranh chữ trên tường: “Nhị ca của ta không bán tranh chữ nữa, nên ta cũng kiêm luôn.”

Thư sinh nói: “Bức tranh chữ của Chung Do, ngươi có bán hay không? Ta thấy, ở đây chỉ có bức này là tạm được.”

“Mấy bức tranh chữ này ta đều không bán,” Vương Tiểu Thạch cười nói: “Không ngờ ngươi lại coi thường Vương Hy Chi 3 như thế.”

“Cái gì? Ta coi thường Vương Hữu Quân 4?” Thư sinh tự chỉ vào mũi mình, nói: “Chữ ông ta khí thế hào hùng, tựa rồng vượt thiên môn, hổ nằm cửa phụng, phàm người nào hiểu được thư nghệ không ai là không sùng bái, ngươi lại dám xỏ xiên ta vậy sao?”

“Không phải ta xỏ xiên ngươi, mà bởi trong mắt ngươi chỉ có Chung Do, chứ không có Hữu Quân,” Vương Tiểu Thạch đưa tay chỉ: “Bên phải bức thư pháp của Chung đại sư, chính là bức ‘Ai Họa Thiếp’ như rồng vượt thiên môn, hổ chầu cửa phụng của Vương Hy Chi mà ngươi vừa nói đến.”

Lần này thì gã thư sinh cơ hồ không xuống thang được nữa, chỉ đành nói: “Tương truyền bức tranh chữ này không phải là chân phẩm, hai bức ‘Tán Loạn’, ‘Đắc Thị’ mới là thiên hạ kỳ thư.”

Tới đây thì Vương Tiểu Thạch không truy kích nữa, chỉ nói: “Ngươi đến mua tranh hay đến khám bệnh?”

Thư sinh nhoẻn miệng cười, đúng là môi đỏ răng trắng, hàm răng đều tăm tắp.

Thư sinh cười cười nói: “Lẽ ra là đến mua tranh chữ, nhưng thứ nào tốt ngươi đều không bán, còn hàng xấu lại không lọt vào mắt ta, vậy thì đành phải khám bệnh thôi.”

Vương Tiểu Thạch nói: “Ngươi có bệnh à?”

Thư sinh thản nhiên nói: “Ngươi là đại phu, câu này phải do ngươi trả lời ta mới phải chứ.”

Vương Tiểu Thạch bèn ngồi xuống, ra hiệu cho thư sinh cũng ngồi xuống: “Mời ngươi thè lưỡi ra.”

Thư sinh ngẩn người, nói: “Cái gì? Trên lưỡi ta có rêu chắc?”

“Ngươi không nghe nói khám bệnh phải vọng văn vấn thiết sao?” Vương Tiểu Thạch trầm giọng nói: “Ngươi không cho ta xem thì cũng tùy thôi, để ta tiện tay kê một thang thuốc cầm đi tả, cho ngươi bảy tám ngày liền không đi nặng được, lúc ấy thì đừng trách ta đó nhé.”

“Được rồi, được rồi!” Thư sinh kêu lên: “Đồ lang băm, phi lễ vật thị, chẳng qua cho ngươi xem cái lưỡi thôi chứ gì!”

Vương Tiểu Thạch xem lưỡi của y, rồi lại bảo y chìa tay ra bắt mạch, hai hàng lông mày nhíu lại, chợt nghe Ôn Nhu cười khẽ, liếc mắt qua, chỉ thấy thư sinh đang thè thè lưỡi với Ôn Nhu.

Lửa giận trong lòng Vương Tiểu Thạch càng bốc lên cao: “Cái tên tiểu tử uổng công đọc sách thánh hiền này, chắc hẳn đến để phá rối ta đây…”

Đột nhiên, thư sinh ấy trở tay, chộp vào mạch môn của gã.

Vương Tiểu Thạch đang định đứng bật dậy, hai chân thư sinh đã giẫm mạnh lên gót chân gã, đồng thời phát lực giật mạnh.

Cú giật ấy, đã giật toang cả cơn giận bốc cao lên đến tận đầu của Vương Tiểu Thạch.

Gã vốn đã tức giận, lại thêm thư sinh giở trò ám toán, đồng thời cũng hiểu rõ nếu một bên kéo hết sức, một bên chịu đựng, chắc chắn hai gót sẽ bị trật giống như những người bị thương kia vậy, không thể nào cử động được nữa.

Thư sinh đang vận sức, Vương Tiểu Thạch liền hạ cùi chỏ xuống, giáng lên mặt bàn, cái bàn vỡ ra, cẳng tay gã vươn thẳng, tay phải lại cứ trầm xuống, tay của thư sinh cũng không giữ chặt được nữa, nhân đà đó, Vương Tiểu Thạch đấm thẳng một quyền xuống gối trái đối phương.

Thư sinh kêu rú lên, một quyền này đủ khiến y nước mắt ròng ròng.

Vương Tiểu Thạch nhân lúc cả người y chồm về phía trước, hai tay chụp lấy bả vai của y như điện chớp, nạt lớn: “Hảo tiểu tử, dám đến đây ám toán!”

Rõ ràng gã đã chộp vào vai phải của thư sinh, không ngờ trước mắt hoa lên một cái, đối phương đã tuột khỏi tay của gã như một con cá.

Thư sinh ấy ám toán không thành, Vương Tiểu Thạch vốn cũng chẳng coi y vào đâu, nay chợt thấy thân pháp tuyệt đẹp đó, không khỏi ngẩn người.

Nhưng thư sinh ấy cũng trúng phải một quyền, đau đến tận tâm phế, không còn nhanh nhẹn nữa, Vương Tiểu Thạch phóng tới tung ra một cước, đá cái ghế thư sinh vừa ngồi bay vèo ra.

Thư sinh ấy sợ đầu gối bị thương, vội vàng dùng tay tiếp đỡ, chỉ thấy một luồng lực lớn dồn tới, thân người lảo đảo một cái, Vương Tiểu Thạch quát lớn, vỗ ra một chưởng.

Thư sinh ấy liền đưa cái ghế lên chặn lại.

“Bốp” một tiếng, cái ghế nát vụn, thư sinh kêu lớn: “Đừng, đừng, đừng…” lại một luồng lực đạo khác dồn tới, y đứng không vững, bay ngược về phía sau bảy thước, lưng va phải vách tường, mấy bức tự họa rơi xuống lả tả.

Vương Tiểu Thạch lướt tới, chộp vào vai phải của y: “Ngươi đi khắp nơi đánh trật khớp của người ta, bây giờ ta cũng cho ngươi trật khớp.”

Chỉ nghe Ôn Nhu kêu lên: “Này, Tiểu Thạch Đầu, huynh làm thật sao?”

Vương Tiểu Thạch nói: “Có gì mà không thật?”

Chợt nghe tên thư sinh ấy giãy giụa nói: “Ngươi, ngươi đả thương ta, ta xé tự họa của ngươi!”

Vương Tiểu Thạch đưa mắt nhìn, không khỏi dở cười dở khóc. Thì ra thư sinh ấy không thoát được tay gã, đã tiện tay chộp bức tự họa của Chung Do trên tường toan xé rách.

Gã thấy người này giở trò cù nhầy, trái lại cũng không muốn đả thương y nữa, chỉ giả vờ gầm gừ: “Ngươi xé tự họa, ta sẽ rút xương cổ của ngươi, để ngươi từ sáng đến tối cúi đầu rầu rĩ, bắt chước bộ dạng năm xưa của Địch Phi Kinh.”

Chợt thấy trước cửa tối sầm lại, rồi một người hét ầm lên: “Tiểu Thạch Đầu, ngươi dám đả thương hắn, ta đốt tiệm của ngươi!”

Vương Tiểu Thạch đưa mắt nhìn, thì ra chính là Đường Bảo Ngưu tướng mạo đường đường, thần dũng uy vũ, trong lòng lấy làm ngạc nhiên, liền lập tức thả thư sinh ra, vỗ vỗ tay nói: “Hắn rốt cuộc là ai? Tại sao các người đều bênh vực hắn?”

Trong đầu gã chợt lóe lên, nhớ lại vừa nãy thư sinh đã bị thương ở gối mà vẫn có thể thi triển bộ pháp tuyệt diệu, bỗng nhớ đến một người: “Thân pháp Bạch Câu Quá Liêu, ngươi là Phương Hận Thiểu?”

Thư sinh vẫn khom người ôm vết thương ở đầu gối, miệng lẩm bẩm: “Mẹ ơi, lần này đúng là Phương Hận Thiểu, họ Phương, mà chỉ hận mình ‘Thiểu’ mất hai cái chân nữa.”

Vương Tiểu Thạch cố nhịn cười, hỏi: “Thế này là sao? Trương Nham đâu?”

Ôn Nhu nhìn bộ dạng đau đớn của Phương Hận Thiểu, cười ngặt nghẽo, suýt nữa thì tắc thở, nhất thời cũng không trả lời được câu hỏi của Vương Tiểu Thạch.

Phương Hận Thiểu trừng mắt nhìn nàng, phẫn nộ nói: “Còn cười! Chỉ tại cô thôi đó!”

Ôn Nhu cười khúc khích nói: “Ta đâu biết huynh quá tệ như thế, huynh còn nói lỡ như đánh không lại, dựa vào một thân tuyệt thế khinh công gì đó, ít nhất cũng có thể chạy thoát, bây giờ thì trông giống cái gì chứ… ha ha ha!”

Phương Hận Thiểu tức tối hỏi: “Cái gì?”

Ôn Nhu lại bật cười mấy tiếng rồi khẽ nói vào tai Đường Bảo Ngưu.

Phương Hận Thiểu nhất quyết phải làm cho ra lẽ: “Nói cái gì đấy?”

Đường Bảo Ngưu cười ha hả: “Vịt què chân.” Rồi y đắc ý nói: “Ôn đại tiểu thư bảo ngươi giống vậy.”

Thật ra toàn bộ việc này chỉ là một trò đùa.

Đường Bảo Ngưu và Phương Hận Thiểu là huynh đệ kết nghĩa trong Thất đại khấu, thường ngày chuyện lớn chuyện nhỏ cũng đều tranh chấp với nhau, nhưng sự thật lại là một cặp bằng hữu đồng sinh cộng tử, mạc nghịch chi giao.

Đường Bảo Ngưu và Phương Hận Thiểu đã quen Ôn Nhu từ trước. Đại cô nương Ôn Nhu tính cách tiểu thư, cùng với Đường Bảo Ngưu chỉ thích phá rối thiên hạ, và Phương Hận Thiểu thích gây chuyện thị phi, lo chuyện bất bình, cộng với Trương Nham thích chuyện bao đồng, tính cách tò mò, mấy người này đi chung với nhau, đủ tạo thành được một tổ hợp quậy phá, thừa sức đi theo Tề Thiên Đại Thánh lên trời xuống biển, đại náo thiên cung.

Đường Bảo Ngưu và Trương Nham sớm đã kết bằng hữu với Vương Tiểu Thạch, còn Phương Hận Thiểu mới chỉ nghe nói đến Vương Tiểu Thạch, nhưng chưa từng gặp, nghe Ôn Nhu khen gã tốt thế nào, Đường Bảo Ngưu khen gã quý mến bằng hữu ra sao, Trương Nham khen gã nghĩa khí đến mức độ nào, trong lòng Phương Hận Thiểu càng không phục, quyết chí phải so cao thấp với gã. Y nói: “Vương Tiểu Thạch là cái thá gì chứ, nếu hắn không dùng Tương Tư đao, Tiêu Hồn Kiếm, ta chỉ cần dùng năm ngón tay này cũng bắt được hắn!”

Trương Nham cười nói: “Đừng cố cãi nữa! Ta phục hắn lắm, tuy còn trẻ tuổi, nhưng võ công nhân phẩm đều hơn người, Tô Mộng Chẩm và Lôi Tổn chỉ biết liều chết giữ lấy quyền lực, Bạch Sầu Phi và Địch Phi Kinh dã tâm càng lớn, đến cuối cùng không phải bị chí khí kích động cho phát rồ lên, thì cũng trở thành nô lệ của chí khí. Không như Vương Tiểu Thạch, nâng lên được buông xuống được, thành công rồi thì lập tức rút lui, chỉ ở Kinh thành nắn gân chữa bệnh cho người ta, giúp người giúp mình, bán chữ bán tranh, vui vẻ thanh nhàn, tiêu diêu tự tại, ngươi đừng tự chuốc lấy khổ thì hơn!”

Phương Hận Thiểu vừa nghe vậy, lập tức lửa giận bốc cao tám mươi hai trượng: “Đi trên sông chẳng tránh giao long, đó là cái dũng của kẻ ngư phu; đi trên bộ chẳng tránh cọp dữ, đó là cái dũng của kẻ thợ săn. Ta phải xem thử Vương Tiểu Thạch có bao nhiêu cân lượng, ấy mới là cái dũng của ta đó.”

Ôn Nhu vỗ tay cười nói: “Hay lắm, hay lắm, huynh cứ giả vờ làm bệnh nhân, tỉ thí với huynh ấy thử xem, nếu huynh có thể lật ngã được khối đá này, ta sẽ thương huynh.”

Phương Hận Thiểu vừa nghe nói như thế, mặt nóng ran lên, càng quyết chí đấu với Vương Tiểu Thạch.

Ôn Nhu cũng chỉ mong ngóng có người hạ gục Vương Tiểu Thạch và Bạch Sầu Phi để trả đũa họ không thèm để ý gì đến Ôn đại tiểu thư như mình.

Trương Nham đành mặc kệ, chỉ cười nói: “Ngươi cứ muốn tự chuốc lấy xui xẻo, ta chỉ đành mặc ngươi thôi vậy.”

Đường Bảo Ngưu hơi lo lắng: “Tên mọt sách, nếu ngươi bị tên Tiểu Thạch Đầu hạ gục, ta nên giúp ai đây?”

Phương Hận Thiểu nghe thế càng giận hơn, nghiến răng nói: “Ngươi cứ yên tâm, để ngày mai xem mèo nào cắn mỉu nào!”

Vì thế mới cùng Ôn Nhu “bày kế” định bắt Vương Tiểu Thạch, thật ra họ cũng không muốn đánh trật khớp của gã, chẳng qua chỉ muốn kiềm chế gã mà thôi, không ngờ hai người vừa động thủ, trong chớp mắt, Vương Tiểu Thạch đã nhìn thấy sự lợi hại trong võ công của Phương Hận Thiểu, trước tiên đánh phủ đầu rồi đả thương đầu gối của y, nếu Đường Bảo Ngưu và Ôn Nhu ngăn cản chậm trễ, chỉ sợ rằng Phương Hận Thiểu đã phải thiệt thân.

Vương Tiểu Thạch có vẻ không vui lắm: “Lần này động thủ với Phương công tử, thật sự là ta không đúng. Nhưng Ôn Nhu, Đường huynh đệ, sao các người lại đùa nghịch đến mức này? Nếu lỡ gặp Bạch nhị ca, e là đã xảy ra án mạng mất rồi.”

Phương Hận Thiểu bại trận, trong lòng đã bực tức, nghe Vương Tiểu Thạch nói thế, bèn nói: “Chúng ta tạm thời huề nhau, thắng thua vẫn chưa biết, nếu chẳng phải bọn họ xen vào giữa chừng, chỉ sợ ta đã lỡ tay đả thương Thạch huynh, lúc ấy thì mới ngại đó, mà sao lại còn một Bạch lão nhị nữa, ta cũng muốn lãnh giáo thử xem, nhưng mà huynh cứ yên tâm, ta không thi triển tuyệt chiêu sát thủ đâu.”

Vương Tiểu Thạch vừa nghe thế, bèn hiểu ngay tính tình của thư sinh này, vội nói: “Đúng vậy, lúc nãy ta suýt bị Phương công tử làm trật khớp tay, có điều, Bạch nhị ca của ta nóng tính lắm, nhất quyết không bao giờ chịu thua đâu, xin công tử nể mặt ta mà tha cho huynh ấy.”

Phương Hận Thiểu lúc ấy mới nói: “Xưa nay ta không thích bức hiếp người quá đáng, nếu Thạch huynh đã nói như thế, ta cũng tạm dừng cuộc quyết chiến ấy lại vậy!”

Vương Tiểu Thạch cười cười nói: “Vậy xin đa tạ.”

Phương Hận Thiểu ngạc nhiên hỏi: “Đa tạ ta cái gì?”

Vương Tiểu Thạch ngạc nhiên nói: “Không gây phiền phức cho nhị ca của ta!”

Phương Hận Thiểu bật cười, giọng điệu như đang giễu cợt chính mình: “Hắn không gây phiền phức cho ta, ta đã cảm kích lắm rồi, còn đa tạ nỗi gì?”

Vương Tiểu Thạch vội vàng sửa lại: “Vậy thì ta đa tạ huynh đã nương tay!”

“Ta nương tay?” Phương Hận Thiểu ngửa mặt nhìn gã: “Huynh có nói thật chăng?”

Vương Tiểu Thạch hơi lúng túng nói: “Nếu lúc nãy Phương công tử mạnh tay, e rằng bây giờ ta đã không đứng đây nói chuyện được nữa rồi.”

“Thạch huynh nói như thế, ta không thể mặt dày đồng ý được. Họ Phương này tuy bất tài, nhưng cũng không mặt dày đến nỗi nhân lúc người ta nhường nhịn mà chiếm phần hơn!” Phương Hận Thiểu hiên ngang nói: “Trận đấu lúc nãy là huynh đã tha cho ta, không phải ta nhường huynh, bản công tử hiểu rất rõ, huynh không cần phải an ủi.”

Vương Tiểu Thạch nhất thời cũng không biết nói thế nào mới phải.

Đường Bảo Ngưu đứng một bên hí hửng nói: “Hà! Không ngờ Đại Phương nhà ngươi cũng nhận thua, đúng là tuyết rơi tháng Sáu, mặt trời mọc lúc nửa đêm.”

Phương Hận Thiểu trừng mắt nhìn y: “Thua thì thua, có gì đâu không dám, ta không giống như con trâu nước nhà ngươi, cứ thích sĩ diện hão. Bình sinh ta đây lúc nào cũng tin theo lời Khổng Tử: Ngửa mặt không thẹn với trời, cúi mặt không ngại với người, bình tĩnh thản nhiên, không giống như loài chuột nhắt nhà ngươi.”

Đường Bảo Ngưu đang định lên tiếng, chợt nghe Ôn Nhu lẩm nhẩm: “Ngửa mặt không thẹn với trời, cúi mặt không ngại với người… Ngửa mặt không thẹn với trời, cúi mặt không ngại với người…”

Đường Bảo Ngưu ngạc nhiên hỏi: “Cô không sao chứ? Có phải trúng nắng rồi không?”

Phương Hận Thiểu bật cười: “Đang tiết Lập đông, nắng ở đâu ra?”

Ôn Nhu chợt kêu lên: “Đúng rồi, ngửa mặt không thẹn với trời, cúi mặt không ngại với người, hai câu này, ta đã từng đọc rồi! Là Mạnh Tử nói chứ không phải Khổng Tử!”

Phương Hận Thiểu đỏ mặt, thấy khó mà xuống thang được, chỉ đành nói: “Lúc nãy ta nói như vậy sao?”

Đường Bảo Ngưu vội nói: “Có, ngươi có nói!”

Phương Hận Thiểu tức tối gầm gừ: “Khổng, Mạnh vốn là một nhà, tại sao lại phải phân biệt Khổng nói hay Mạnh nói, thật là nhảm nhí.”

Đường Bảo Ngưu nói: “Vậy thì ta hiểu rồi!”

Phương Hận Thiểu tưởng đối phương ủng hộ mình, bèn nói: “Ngươi hiểu thì tốt!”

Đường Bảo Ngưu nói: “Khổng, Mạnh vốn là một nhà, vậy ta với ngươi cũng chẳng phân biệt gì, chi bằng ngươi lấy họ ta, cứ gọi là Đường Hận Thiểu, thế được không?”

Lần này Phương Hận Thiểu không kiềm chế được nữa, đang định phát tác thì Vương Tiểu Thạch vội lái sang chuyện khác: “Trương Nham đâu? Sao vẫn chưa tới?”

Ôn Nhu thò đầu ra ngoài ngó quanh quất, bên ngoài rất lạnh, tuyết vừa mới rơi, cây cối ngoài đường vẫn còn vương hoa tuyết, cả sỏi đá trước cửa cũng đầy tuyết.

“Đúng thế, huynh ấy đâu rồi? Sao vẫn chưa tới?”

Vừa mới nói xong, một cỗ xe mui đen xuất hiện ở đầu phố, đến trước cửa thì dừng lại. Mui xe trùm kín cả tấm vải, người ngồi đánh xe chính là Trương Nham!

Ôn Nhu vừa thấy y đã tươi cười: “Cục than chết tiệt, lúc nãy có chuyện ly kỳ, thế mà huynh bỏ qua rồi!”

Nhưng Trương Nham thì lại rầu rĩ nói: “Vương công tử, lên xe đi!” Vương Tiểu Thạch ngẩn người, bình thường, Trương Nham chỉ gọi gã là “Tiểu Thạch Đầu”, sao hôm nay lại gọi là “công tử?” Gã thắc mắc: “Lên xe? Lên xe làm gì?”

Trương Nham vẫn ỉu xìu nói: “Lên xe rồi nói.”

Ôn Nhu vỗ tay cười nói: “Hay lắm, cả bọn chúng ta ngồi xe đến Đại Phật tự chơi đi.”

Trương Nham lắc đầu.

Ôn Nhu ngạc nhiên hỏi: “Cục than đen, hôm nay huynh làm sao vậy?”

Trương Nham lại gật gật đầu.

Đường Bảo Ngưu quát lên: “Cục than kia, ngươi làm cái quái gì thế?”

Trương Nham đột nhiên chồm người về phía trước, tựa như muốn ngẩng đầu ưỡn ngực lên, nhưng động tác rõ ràng rất không tự nhiên.

Chỉ nghe y nói: “Ta… ta không sao, mời Vương công tử lên xe.”

Vương Tiểu Thạch đành hỏi: “Đi đâu?”

Trương Nham chợt thè lưỡi, lại còn nheo mắt.

Một người cúi đầu rầu rĩ, đột nhiên lại làm ra những động tác này, có thể nói là lạ lùng đến cực điểm, nhưng liền ngay sau đó, sắc mặt của Trương Nham lại trở về bình thường.

Y có đôi mắt tròn, cái mũi tròn, đôi tai tròn, khuôn mặt tròn, nhìn giống như một cục cơm tròn, nhưng lại có một đôi lông mày nhướng cao, những lúc có vẻ suy tư trầm ngâm toát lên một khí chất bất phàm, mà cho dù là lúc vô thần vô khí cũng có khí thế sừng sững hiên ngang, bất động như sơn.

Lời nói của y vẫn ỉu xìu yếu ớt: “Công tử lên rồi sẽ biết ngay.”

Vương Tiểu Thạch nói: “Nhưng tiệm của ta vẫn đang mở mà.”

Trương Nham nói: “Đóng vào là xong.”

Đường Bảo Ngưu chợt nói: “Sao ngươi không vào trong ngồi chút đã?” Câu nói này y nói ra rất chậm, cũng có vẻ rất dè dặt.

Trương Nham cũng trả lời rất chậm rãi, rất cẩn trọng: “Ta mệt đến nỗi chỉ muốn tìm một cái huyệt. Đạo lộ thông đến đâu cũng mặc kệ, ngày nào cũng như thế này làm sao chịu? Chế phục bản thân không xong, đi khắp nơi quậy phá. Lại không muốn đi sau. Mặt xoay vào tường sám hối cũng không kịp nữa rồi. Cuộc đời chính là từ không đến có. Địch hay bạn đều là như thế.”

Sau đó lại nói tiếp: “Đại ca nhị ca tam ca đừng giận.” Nhưng câu nói này lại rất nhanh, từng chữ từng chữ như pháo liên châu bắn ra, chẳng hề giống giọng điệu xin người ta bớt giận chút nào.

Mấy lời trước y nói cũng rất tỉ mỉ, rất thận trọng, mỗi câu nói đều ngập ngừng một chút, rồi mới nói tiếp, tựa như mỗi chữ đều là phán ra một tội trạng, từng chữ định sinh tử, không thể sai được.

Nhưng Vương Tiểu Thạch và Ôn Nhu đều chẳng hiểu gì cả.

Lời Trương Nham nói, nghe như hiểu đấy, mà rốt cuộc chẳng hiểu gì cả.

Rốt cuộc y muốn nói gì?

Nhưng Phương Hận Thiểu lại tựa hồ đã hiểu ra.

Y cũng thận trọng hỏi: “Lần trước ngươi không dám tiến tới, kẻ cứu một mạng người cũng không dám chính là ngươi.”

Câu nói này là ý gì nữa chứ?

Ôn Nhu rốt cuộc cũng không kìm được nữa: “Các người đang nói gì thế?”

Phương Hận Thiểu quay đầu hỏi nàng: “Cục than chết tiệt chỉ mời Tiểu Thạch Đầu đi, mà không thèm ngó ngàng đến chúng ta, cô nương nói có đáng hận hay không?”

Ôn Nhu đáp ngay mà chẳng cần suy nghĩ: “Đáng ghét chết đi được!”

Phương Hận Thiểu tựa như biết chắc chắn nàng sẽ trả lời như thế, quay sang nói với Đường Bảo Ngưu: “Ôn Nhu cũng nói đáng đánh!”

Đường Bảo Ngưu vừa vén ống tay áo, vừa sải bước tiến về phía trước, mắng Trương Nham: “Cục than chết tiệt, xuống đây xuống đây, để ta dạy dỗ ngươi.”

Ôn Nhu cũng thấy hơi thắc mắc, định giải thích: “Ý của ta chỉ là…”

Phương Hận Thiểu đột nhiên lách người lướt lên, vừa tiến đến trước cỗ xe vừa nói với Ôn Nhu: “Ôn cô nương đừng khóc, cục than này thật đáng ghét, ta sẽ đánh cho hắn một trận tơi bời, trút giận giùm cho cô.”

Nói vừa xong, y đã phóng vọt người lên, thân pháp của y cực kỳ nhanh, nhanh đến nỗi không thể tưởng tượng được, nhưng có một người còn nhanh hơn y, đã phóng đến chỗ Trương Nham, đấm thẳng vào mặt họ Trương một quyền!

Người này chính là Đường Bảo Ngưu.

Ôn Nhu vội kêu: “Sao các người…”

Tưởng chừng nắm đấm của Đường Bảo Ngưu sắp thụi thẳng vào mặt Trương Nham thì Phương Hận Thiểu đã lao tới, vươn tay, chộp lấy người Trương Nham ném ra ngoài. Còn tay quyền của Đường Bảo Ngưu vẫn thẳng tiến, đấm trúng vào thùng xe.

“Ầm” một tiếng, thùng xe sụm xuống.

Khi Phương Hận Thiểu kẹp được Trương Nham, trong xe tựa như có mấy luồng bạch quang, chớp lóe lên hai lượt.

Trương Nham đang lơ lửng giữa không trung lật ngược tay lại, tựa như tiếp chiêu, rồi phát ra một tiếng “hự”.

Phương Hận Thiểu đang bay lướt đi, thân hình cũng hơi khựng lại.

Vương Tiểu Thạch vừa thoáng thấy ánh đao lóe lên hai lượt, đã lập tức vỡ lẽ.

Thì ra là thế!

Gã hối hận mình đã không kịp nhìn ra từ trước.

1. Kê Khang (233-262): tên Thúc Dạ, người đời Tấn, ở đất Trất (nay thuộc huyện Túc, tỉnh An Huy). Dòng họ Hề, lánh nạn đến Kê Sơn, do đó tự đặt hiệu là Kê Khang. Ông là một trong ‘Trúc Lâm thất hiền’. Sau bị Tư Mã Chiêu giết. Khi lâm hình ông vẫn ung dung gảy khúc Quảng Lăng tán. Ðàn xong nói: ‘Có kẻ xin học bài này, ta không dạy, thế là từ đây không còn ai đàn bài Quảng Lăng này nữa.’

2. Chung Do (151-230) là đại thần cuối thời Đông Hán, công thần khai quốc nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.

3. Vương Hy Chi (303-361) là nhà thư pháp, danh nhân nổi tiếng thời Đông Tấn trong cả lịch sử Trung Quốc.

4. Vương Hy Chi từng làm quan đến chức Hữu quân tướng quân, vì vậy ông còn được gọi là Vương Hữu Quân.
— QUẢNG CÁO —