Thuyền đội của Diệp Ma quả nhiên không đi theo, nhìn hai con thuyền nhỏ một trước một sau rời khỏi thôn Thượng Long.
Khi thuyền sắp vào Thái Hồ, Lục Tích lệnh thủ hạ dừng thuyền, nói với Thẩm Mặc: - Đưa thuyền vào gần đây.
Thẩm Mặc sai thuyền tới gần, Lục Tích lại nói: - Ngươi tự qua đây mà ôm hắn về. Nói xong lắc lắc đèn trong tay: - Đừng giở trò, nếu không mọi người cùng chết hết.
- Được, ngươi cũng đừng giở trò. Thẩm Mặc gật đầu, theo lời đi tới, hộ vệ của y giơ cung lên, nhìn chằm chằm Lục Tích, có chút hành động khác lạ là cho hắn thành nhím.
Thẩm Mặc tới bên Lục Tích, khom người vác Hải Thụy lên, đặt trên vai như vác bao tải, có thể thấy Hải đại nhân gầy thế nào.
Đợi Thẩm Mặc xoay người đi, chầm chậm quay về, khóe miệng dưới mặt nạ của Lục Tích hiện lên nụ cười tàn khốc, tay phải đặt trên xe lăn ấn mạnh xuống.
Thấy hắn có hành động khác thường, vệ sĩ của Thẩm Mặc không cần suy nghĩ bắn nỏ trong tay ra, nhưng một mũi tên mang ánh sáng xanh cũng từ tay vịn như chớp bắn vào lưng Thẩm Mặc.
Lục Tích chán sống từ lâu rồi, chẳng qua chỉ đợi cơ hội này để cùng Thẩm Mặc đồng quy vu tận.
Tay vịn xe lăn của hắn, kỳ thực là một cái nỏ bí mật, phát động cơ quan, là có thể bắn ra một mũi tên, trên mũi tên đó tẩm chất kịch độc, ai trúng là chết ngay. Mặc dù như thế thì quá lợi cho tên ác nhân Thẩm Mặc, nhưng đối với kẻ yếu, có cơ hội giết kẻ mạnh đã là mừng lắm rồi, còn chọn phương thức phương pháp gì nữa.
Nhìn thấy mũi tên trí mạng bắn trung lưng Thẩm Mặc, rồi thấy y ngã thẳng về phía trước, hiển nhiên đã không còn cơ hội sống sót nữa.
Mặt Lục Tính lộ ra nụ cười như trút được gánh nặng, nhưng nụ cười còn chưa kịp nở hết thì người hắn đã bị mấy mũi tiễn ghim chặt vào xe lăn.
Cây đèn luôn nằm trong tay trái của hắn cũng rơi xuống, chỉ nghe phùng một tiếng, lửa đột nhiên bùng lên bao phủ hắn trong đó.
Lục Tích dùng sức lực cuối cùng rít lớn: - Sống cho gì vui, chết có gì khổ? Thiêu ta trong lửa, đốt cháy thân tàn! Thẩm Mặc, cuối cùng ngươi cũng chết trước mặt ta...
Lời còn chưa dứt đã thấy ở trên thuyền đối diện, Thẩm Mặc được thủ hạ đỡ dậy.
Có lẽ là đau, cũng có lẽ là sợ, Thẩm Mặc mặt trắng bệnh, vặn vẹo, chỉ vào Lục Tích chửi lớn: - Đừng tưởng rằng ngươi chết mà xong, ta thế nào cũng đem tro cốt của ngươi làm phân bón, đi nuôi hoa đuôi chó!
Lục Tích không tin nổi nhìn chằm chằm vào Thẩm Mặc đang hùng hổ chửi mình. Hắn cuối cùng cũng tin kẻ này chính là sao trên trời hạ phàm, nếu không sao giết cũng không chết? Bi ai từ tận đáy lòng dâng lên, mắt mở lớn gào lên như quỷ: - Ông trời, tại sao lại như thế ... Rồi phun ra một ngụm máu đen, táng mạng trong ngọn lửa.
Thẩm Mặc vịn vào vai Thiết Trụ, nhìn Lục Tích bị lửa đốt co quắp lại, nhổ phì mộ cái: - Mẹ nói, dễ dàng cho ngươi quá.
- Đại nhân, lát nữa cháy hết rồi, có lấy tro cốt hắn làm phân bón không? Thiết Trụ hỏi nhỏ.
- Ta túc giận mà nói thôi thế mà ngươi còn coi là thật. Thẩm Mặt trợn mắt lên, rổi rút một tiếng: - Ối cha, đau chết ta mất, mau xem xem, lưng ta làm sao rồi, có phải xương sống gãy rồi không?
Thiết Trụ và đám hộ vệ vội vàng dìu y nằm sấp xuống, mũi tên kia cắm vào lưng Thẩm Mặc vậy mà y vẫn sống sờ sờ, hiển nhiên là dưới lớp áo bào rộng thùng thình có cái gì đó.
Thiết Trụ xé áo bào của Thẩm Mặc ra, liền nhìn thấy một lớp giáp mắt xích mong mỏng, cái nỏ kia mạnh tới mức bắn xuyên qua lớp giáp.
Thiết Trụ không dám xem thường, thận trọng cởi lớp áo giáp đó ra, bên trong là nhuyễn giáp màu vàng thẫm, chỉ thấy mũi tên bị nhuyễn giáp giữ chặt, không tiến vào được chút nào.
Đám người Thiết Trụ thở phào, rút mũi tên ra, rồi mới giúp Thẩm Mặc cởi chiếc áo giáp mặt sắt người đó, liền thấy chỗ lưng bị mũi tên bắn trúng tím bầm .
- May quá, chỉ bị thương do va chạm, nghỉ một tháng là khỏe. Thiết Trụ toét miệng cười: - Không ngờ bảo giáp của đại nhân thật là lợi hại.
Tam Xích ở bên cạnh cũng góp vui: - Lục Bỉnh tặng bộ giáp chặn mũi tên cháu ông ta bắn, vụ này nên tỉnh ra sao đây?
- Tính cái đầu ngươi ấy. Thẩm Mặc hít một hơi khí lạnh: - Còn không mau xoa dầu cho ta, ôi con bà nhà nó, đau chết mất thôi. Nói xong đưa tay lên sờ mặt, cũng có một vết máu, thì ra là trán đập đầu vào cạnh thuyền bị thương, rách một miếng lớn, không khỏi càng bực bội: - Đúng là người quá vui chẳng phải chuyện tốt, ta đúng là là quá sơ xuất rồi.
- Đại nhân, không việc gì đâu, vẫn đẹp trai lắm. Tam Xích vội an ủi.
- Thế thì tốt, thế thì tốt. Thẩm Mặc vui mừng nói, thấy Hải Thủy nắm bò trên đất, không ai để ý tới, ngẩng cằm lên hỏi: - Tên gia hỏa này làm sao rồi? Thiết Trụ xoa thuốc bóp cho Thẩm Mặc, Tam Xích thì băng bó cầm máu cho y, Hải Thụy mặt mày bơ phờ dựa vào mạn thuyền, vừa uống nước vừa ngây ra, tựa hồ còn chưa tỉnh lại sau cơn ác mộng.
- Cương Phong huynh, sự tích huynh lấy thân bảo vệ đê đã truyền khắp đông nam rồi. Thẩm Mặc cho rằng hắn lo lắng vận mệnh tương lai, liền tươi cười an ủi: - Hiện giờ huynh chết là liệt sĩ, sống là anh hùng, không phải lo trở về bị người ta hiểu lầm.
- Đại nhân hiểu lầm rồi. Hải Thụy lắc đầu, giọng phều phào: - Hạ quan không nghĩ gì cả, chỉ là có chút không thoải mái.
Thẩm Mặc nhìn rõ hắn tâm sự trùng trùng, nhưng lại còn dám chối với mình, liền hỏi: - Có một chuyện ta rất tò mò, trước kia huynh làm sao thuyết phục được giặc Oa không phá đê.
- Nói ra có thể đại nhân không tin. Hải Thụy chậm rãi nói: - Kỳ thực khi ấy hạ quan không mang bất kỳ một hi vọng nào, trong lòng chỉ có suy nghĩ người còn đê còn, đê phá người chết cho nên mới giao thiệp với bọn chúng, ai ngờ khi hạ quan nói với bọn chúng, nếu phá cái đê này, mấy chục vạn hương dân dưới hạ du sẽ gặp tai ương, trong đám giặc Oa liền có kẻ động lòng, bọn chúng lần lượt thỉnh cầu Tân Ngũ Lang đừng phá đê, Tân Ngũ Lang không vui, nhưng thấy người phản đối ngày càng nhiều, cuối cùng đành phải đồng ý, không hủy đê của chúng ta.
- Nguyên nhân là vì sao? Thẩm Mặc thắc mắc.
- Hạ quan cũng rất lấy làm lạ, về sau quen thuộc vớ đám giặc Oa canh giữ mình rồi mới biết nguyên nhân. Thì ra cái gọi là giặc Oa, kỳ thực đa phần là con dân Đại Minh, bọn họ học theo võ sĩ Nhật Bản búi tóc lên, kiếm trang phục Nhật Bản mặc vào, tới ngay cả thuyền cũng cố gắng trang trí cho giống thuyền Nhật Bản, chỉ sợ người khác nhận ra thân phận của mình. Nguyên nhân sâu xa kỳ thực rất đơn giản, vì trong Đại Minh luật, "mưu phản đại nghịch", đều là tội chém cả nhà, những người đó không muốn liên lụy tới người thân, cho nên mới tìm mọi cách che giấu xuất thân.
Đối với những điều này, Thẩm Mặc tất nhiên là biết cực rõ, y hiểu giặc Oa hơn xa Hải Thụy có thể theo kịp.
Y biết, duyên hải đông nam, chính vì dễ tiếp cận Nhật Bản, cho nên đám làm loạn kia, đều dựa vào trang phục, vũ khí và vật dụng buôn lậu được từ Nhật Bản, làm đạo cụ che giấu thân phận của mình. Về điều này , quan phủ thật ra cũng biết, tiền nhiệm tổng đốc đông nam Chu Hoán từng dâng tấu nói: " nguyên nhân do giặc Oa Đại Minh ta chủ mưu dẫn đường cho giặc, những kẻ đó mặc đồ Oa, nên gọi là giặc Oa"
Hiển nhiên là người dân dưới quyền cai trì của mình không sống được nữa đứng dậy làm phản, đối với quan viên địa phương mà nói, đó là việc khó chịu nổi; còn đối với triều đình mà nói, thừa nhận tai họa tạo thành cho vùng duyên hải vì cấm biển, không chỉ mất mặt, mà còn bằng với chĩa mũi giáo vào thái tổ Chu Nguyên Chương, càng vạn lần không thể.
Vì thế trên từ hoàng đến, dưới tới bách quan trong triều, đều hiểu ngầm trong lòng dùng cái danh xưng này, chính là để đem mâu thuẫn trong nước nói thành ngoại quốc xâm nhập. Dưới tình huống ai ai cũng xưng hô như thế, vậy là giả thành thật, được người ta coi cuộc chiến chống Oa thực chất là một cuộc nội chiến lại thành cuộc kháng chiến giống như đánh Mông Cổ vậy.
- Không phải thủ hạ của Tân Ngũ Lang đại đa số là người Nhật Bản sao? Nhưng Thẩm Mặc không đem suy nghĩ của mình nói ra, vì như thế quá mức đại nghịch bất đạo, chẳng may cái tên Hải Thụy đầu óc sơ cứng thoái hóa này không tiếp nhận nổi, dâng tấu đàn hặc y thì toi đời.
- Chỉ có thể nói là nhiều hơn trong quân của Từ Hải và Diệp Ma một chút thôi. Nhưng người Nhật Bản cũng chẳng tới bốn phần, hơn nữa đám giả Oa thủ hạ Tân Ngũ Lang, đại đa phần là người nghèo, công nhân may thất nghiệp, cùng với cả hải thương phá sản ở Tô Tùng. Thân nhân của những kẻ đó hoặc ít hoặc nhiều đều ở bản địa, đi theo cướp bóc đều là bất đắc dĩ, cho nên Tân Ngũ Lan muốn phá đê, nhấn chìm nhà cửa của bọn họ thì bọn họ dứt khoát không đồng ý.
Nghe Hải Thụy nói xong, Thẩm Mặc dặn nhỏ: - Những lời này chỉ nói giữa hai ta với nhau thôi đấy, ngàn vạn lần đừng nói với người ngoài, nhớ kỹ chúng ta đang "kháng Oa", chúng ta đánh người Nhật Bản chứ không phải là đối phó với bình dân Đại Minh tạo phản, nếu không nói ra là phiền toái to đấy.
Mặt Hải Thụy lộ vẻ phẫn nộ, oán hận nói: - Quan phủ triều đình ra sức che đậy, đùn đẩy trách nhiệm, kỳ thực cái họa giặc Oa chính là do một tay bọn chúng tạo thành. Chỉ cần hiện trạng của triều đình không thay đổi, thì cho dù đại nhân co thu phục được Từ Hải, cũng sẽ có Trương Hải, Vương Hải, Lý Hải nhảy ra mà thôi.
- Đây không phải là vấn đề nhân vật nhỏ như chúng ta quan tâm.
Thẩm Mặc chẳng muốn bàn chuyện với kẻ chỉ giỏi làm hỏng việc này, trong mắt y thì Hải Thụy chỉ quản lý một huyện cũng là quá sức, nói gì chuyện tầm vóc quốc gia, không phải hắn không có tài, mà hắn thiếu tầm nhìn, cực đoan và cục bộ: - Cương Phong huynh, chúng ta không nói chuyện này nữa.
- Sao lại không nên quan tâm? Hải Thụy ngồi thẳng dậy, nghiêm túc nói: - Đại nhân nói không sai, Hải Thụy không phải tuần án ngự sự, cũng không phải quan lớn tỉnh bộ, hạ quan chỉ xuất thân là cử nhân, xuất thân dân hải đảo man di, nếu không có hoàng ân lồng lộng, hạ quan khẳng định chết già ở chức giáo dụ Nam Bình, giống như cỏ cây sinh ra rồi héo úa, không để lại bất kỳ một dấu vết nào trên đời.
- Hạ quan rất cảm kích triều đình có thể cho hạ quan ra làm quan một phượng, cho cơ hội làm chút việc vì người dân. Nói những lời này, khuôn mặt Hải Thụy như phát sáng, từng câu từng chữ đầu vang vang rành rọt: - Hạ quan tự biết tư chất đần độn, không được thông minh như những đồng liêu, không hiểu được những quanh co trong chốn quan trường, lá mặt lá trái. Cho nên hạ quan chỉ biết làm đúng theo lời dạy của thánh nhân, cẩn trọng làm việc, mặc cho người ta oán trách. Bất kể là thăng đường thẩm án ở Trường Châu, duy trì trị an ở Tô Châu, hay tới sông Ngô Tùng sửa đê, hạ quan đều làm việc chăm chỉ, không cầu làm được làm tốt, nhưng cầu cố hết khả năng.
- Hạ quan vốn cho rằng mình làm như thế, trên không thẹn với quân phụ quốc gia, dưới có lợi cho bách tính lê dân, coi như làm trọng bổn phận của một quan viên. Hải Thụy nói tới đó giọng điệu thay đổi, bi phẫn nói: - Nhưng hạ quan sai rồi, sai lớn rồi! Bởi vì hạ quan phát hiện ra, nếu như không thay đổi một số thứ, cho dù có một trăm Hải Thụy, một ngàn Hải Thụy, làm một ngàn, một vạn chuyện thực tế, cũng chỉ như xây lầu trên không, dễ dàng bị người ta phá húy.
- Cái triều đình này đã trở thành không ai không tham, không chỗ nào không tối, ai ai cũng đều nghĩ đút cho đầy túi tham, đem tài sản của bách tính thành của mình; bất kể là thuế má đất đai, muối sắt hay là công trình thủy lợi nông điền, đều có kẻ chầu chực sẵn để vơ vét. Chuyện có lợi cho nước cho dân, bọn chúng không kiếm được lợi lộc, không làm! Chuyện hại nước hại dân, nhưng bọn chúng kiếm chác được, là làm còn làm nhiệt tình! Không chỉ một giải Chiết Trực, mà hai kinh mười ba tỉnh toàn quốc đều toàn ung nhọt như thế.
Hải Thụy mặt như thép lạnh, râu tóc dựng lên, giọng nói phẫn nộ vô cùng: - Tại sao bọn chúng có thể mặc sức tham ô, càng ngày càng làm tợn? Là bởi vì bên trên bọn chúng còn có kẻ tham lam vô độ hơn. Trong triều có trọng thần đạo mạo đường hoàng mặc mãng bào đeo đai ngọc, trong cung có trung quan cáo mượn oai hùm, lòng tham không đáy, khắp nơi trong thiên hạ còn có tông tộc hoàng thất.
- Ai cũng bảo do Nghiêm đảng gây hại, khiến cho Đại Minh suy bại thành ra thế này. Hải Thụy cười khẩy: - Hạ quan không phải xem thường bọn họ, nhưng chỉ bằng cha con Nghiêm Tung Nghiêm Thế Phiên mà có thể khiến Đại Minh thành ra thế này à? Hạ quan thấy hai người đó không gánh nổi tội lớn như thế. Ít nhất người trong cung và tông thất phiên vương thì không phải là quần thần có thể quản được. Đại Minh rơi vào cảnh ngày hôm nay, những kẻ đó khó thoát khỏi trách nhiệm. Lý lẽ giống như kháng Oa thôi, quan viên đều biết nguyên nhân thực chất ở đâu, nhưng đổ vấy cho cha con họ Nghiêm, chẳng qua chỉ để lừa mình lừa người, quên đi hiện thực không lối thoát, né tránh hoàng tộc bọn họ không đối phó nổi, hoặc thậm chí thân tộc tham lam chiếm lĩnh ruộng đất của chính mình.
- Lấy phiên vương ra nói, nhưng nằm Hồng Vũ mới lập quốc, nhân khẩu tông thất chỉ vẹn vẹn 58 người, tới năm Thành Hóa, nhân khẩu tông thất ghi chép ở ngọc điệp đạt tới 8203 người, tới năm đầu thời Gia Tĩnh lại tăng thêm hai lần, mà cho tới nay qua hơn 30 năm thái bình, nhân khẩu tông thất đã vượt quá 3 vạn 5 ngàn người. Những người thuộc hoàng thất này hoàn toàn không phải làm lụng, dựa hết vào quốc gia phụng dưỡng . Dựa theo quy chế một thân vương mỗi năm cung dưỡng 5 vạn thạch gạo, 2 vạn quan tiền. Gấm, lụa, tơ, vải ,vóc mỗi thứ một nghìn thất, những thứ chi tiêu khác càng không kể siết. Một thân vương thôi đã khiến quốc gia phung phí như thế, vậy thì hơn 3 vạn 5 nghìn người kia hao phí của quốc gia bao nhiêu? Đại nhân đã tính qua chưa?
- Chưa. Thẩm Mặc lắc đầu.
- Hạ quan đã tính rồi, Nam Trực Đãi ta từ năm Gia Tĩnh thứ 10 tới năm 30, bình quân mỗi năm tồn lưu 112 vạn thạch lương, nhưng gạo lộc cung cấp cho hoàng thân tới 243 vạn lượng lương thực. Với sự giàu có nhất thiên hạ của Nam Trực Đãi mà lương thực hai năm không đủ cung cấp cho hoàng thất một năm, gánh nặng của nó lớn thế nào khỏi nói cũng biết. Hải Thụy trợn như muốn toét mắt ra: - Càng đáng hận hơn nữa đám tông tộc hoàng thất, hoạn quan trong cung, quan lại các cấp, không chỉ mặc sức hưởng thụ quốc gia cung phụng, còn tham lam ra sức thôn tính đất đai. Cứ lấy Nam Trực Đãi ta ra làm ví dụ, ít nhất có tới 7 phần đất đai tập trung trong tay những kẻ này, mà bọn chúng dựa vào đặc quyền, không phải nộp phú thế. Vì thế thuế má nặng nề đều đè hết lên đầu người dân.
- Đại nhân cứ nghĩ mà xem, tiểu dân bách tính chỉ có chưa tới ba phần ruộng đất thiên hạ, lại phải nộp thuế toàn thiên hạ, nuôi dưỡng đám quý nhân có ngàn vạn mảnh ruộng, cái thói đời này còn lẽ công bằng nữa không? Người dân có còn đường sống nữa không? Người dân không sống nổi nữa, không tạo phản thì ngồi yên đợi chết à? Hải Thụy đau đớn vô cùng: - Có câu trời tạo nghiệt có thể sống, tự tạo nghiệt chết là chắc. Cái họa giặc Oa đông nam sở dĩ càng ngày càng tệ, không phải là kết quả của việc quan bức dân làm phản sao? Người dân nếu có đường sống, ai muốn bỏ rơi tổ tiên, mạo hiểm đi làm giặc Oa?
- Cho nên hạ quan mới nói, tệ nạn lớn thiên hạ không trừ, đông nam vĩnh viên không yên, triều đình vĩnh viễn không yên, bách tính Đại Minh vĩnh viễn không yên. Hải Thụy này lấy tấm thân nhỏ nhoi, liều chết can gián, mong quân phụ làm Nghiêu Thuấn, tránh bách tính khỏi đói khổ. Chỉ cần bệ hạ có thể chăm lo việc nước, tránh xa tiểu nhân, cần mẫn phấn đấu, làm mới chính trị, đả kích cường hào, hạn chế tông thất, xóa bỏ xâm lấn đất đai, cho người dân có đất cầy cấy, có cơm để ăn, có áo để mặc, có tiền để tiêu. Như thế sẽ không ai đi làm giặc Oa nữa, đông nam không chiến mà an, đó mới là chính đạo nhân gian.
Vào lúc đó, toàn thân Hải Thụy chìm vào trong trạng thái cuồng nhiệt, làm người ta không khỏi nghiêng mình kính nể, đồng thời bất giác muốn tránh cho xa.
Cuối cùng Hải Thụy cũng đã nói xong, chăm chú nhìn Thẩm Mặc, nhưng không nhìn thấy chút tán thưởng nào, liền thất vọng, bảy chữ "đạo bất đồng, không thể cùng mưu" đột nhiên hiện lên trong lòng. Hắn đã hiểu ra con đường của mình định sẵn là cô độc, hắc ám rồi.
Thẩm Mặc nhìn thấy thất vọng trên mặt Hải Thụy, không đành lòng, cười nói: - Sau khi tới Nam Kinh thì giấu lời này vào trong bụng, đừng cho người ta biết, không nghĩ cho mẹ già thì cũng phải nghĩ tới sứ mệnh nối dõi tông đường của mình. Có câu "hễ còn nghèo cùng thì giữ cho riêng mình thiện", hiện giờ huynh coi như chưa giầu, trước tiên giữ thiện cho mình, đợi ngày bay cao, hãy kiêm toàn chuyện thiên hạ cũng không muộn.
Hải Thụy kinh ngạc vì nội dung lời nói của Thẩm Mặc, hỏi: - Hạ quan đi Nam Kinh làm gì?
- Chúc mừng Hải đại nhân. Thẩm Mặc cười khà khà: - Lại bộ đã gửi công văn tới tháng trước, lệnh Tô Châu đồng tri Hải Thụy, làm Nam Kinh Hồng Lư Tự Khanh, Cương Phong huynh xuất thân cử nhân, chỉ mấy năm đã làm tới quan tứ phẩm, khoác hồng bào trên mình, đúng là một giai thoại ...
Tuy nói là thế nhưng giọng của y càng ngày càng nhỏ đi theo cùng sắc mặt của Hải Thụy càng ngày càng khó coi.
Hải Thụy mặc dù không hiểu đời, nhưng không phải kẻ ngu, tất nhiên là biết Nam Kinh là chỗ quan viên mang chức đi đày, loại địa phương đó thì có lễ điển, lễ nghi gì để an bài? Cho nên Hồng Lư Tự ở Nam Kinh là nơi không thể rảnh rang hơn được nữa ... Bản thân hẳn làm đồng tri Tô Châu, kiêm công ủy viên sông Ngô Tùng, thoáng cái đày tới loại địa phương như thế, hiển nhiên là trừng phạt cực lớn. Hắn gằn giọng hỏi: - Đây là chủ ý của ai?
- Là ý bên trên, lại bộ gửi công văn xuống, ta cũng chẳng hiểu vì sao?
- Hạ quan biết rồi... Hải Thụy ngẩng đầu lên: - Là Từ các lão, vì trừng phạt hạ quan trước kia làm ông ta mất người mất đất.
- Có lẽ vậy. Thẩm Mặc không thể vờ ngốc được nữa: - Ta đã tranh thủ hộ huynh, nhưng ta chỉ là một tri phủ nhỏ nhoi, không có cách nào, để huynh tới Nam Kinh trước ủy khuất một chút, có cơ hội là lập tức điều huynh về.
- Đại nhân không cần nhọc lòng nữa. Hải Thụy không ngờ nhanh chóng điều chỉnh tâm tình, lại còn cười ra tiếng: - Quan viên tứ phẩm càng tốt, hạ quan cuối cùng có thể quang minh chính đại dâng sớ, đề xuất ý kiến với triều đình rồi.