Minh đối với hệ thống của hắn tương đối bất đắc dĩ .
Cũng không biết ai làm cái hệ thống này vậy mà đem con bỏ chợ như vậy, đến cả phối âm thanh cũng không phối cho hắn chứ đừng nói là giải thích gì thêm .
Minh chỉ có thể dựa vào bản thân mình mà phân tích .
Trong cả ba tấm thẻ bài kỹ năng, hệ thống đều nhấn mạnh ‘người Việt’ .
Đây là một từ rất có giá trị tham khảo .
Việt ở đây tính như thế nào ? .
Việt ở đây là quần tộc Bách Việt hay có ý nghĩa khác ? .
Nếu chỉ đơn thuần là quần tộc Bách Việt thì không khó thậm chí rất dễ nhưng nếu có ý nghĩa khác thì tương đối phức tạp .
Quần tộc Bách Việt thì không cần nói nhưng nếu chữ Việt kia mang ý nghĩa . . . Việt Nam hoặc là một tộc Việt thống nhất thì sao ? .
Cũng đừng trách Minh nghĩ nhiều dù sao hắn ẩn ẩn cảm thấy hệ thống mang theo ý đằng sau bởi nếu chỉ cần thuộc quần tộc Bách Việt là được vậy gì cái gì hệ thống không nói rõ ra, chỉ ghi một chữ Việt ? .
Vấn đề này hiển nhiên cần phải làm rõ, ngoài ra cũng còn không ít vấn đề khác .
Giả dụ trường hợp của Trần Lãm chẳng hạn, hệ thống yêu cầu không cao nhưng cũng không thấp .
Tinh thông thuỷ tính, xuất thân ngư nghiệp, cái này rất dễ .
Tuy đại đa số người Giao Chỉ hiện tại đều sinh sống bằng săn bắt, hái lượm cùng nông nghiệp nhưng không có nghĩa không ai làm ngư nghiệp .
Ở mạn sông Hồng đảm bảo có thể tìm được người thích hợp dù sao sông Hồng có thể coi mà mẫu hà của người Việt Nam, đã tồn tại vài ngàn năm xuyên suốt dòng lịch sử, đã nuôi sống cùng gắn kết với không biết bao nhiêu thế hệ người Việt từ cổ chí kim .
Tại mạn sông Hồng muốn tìm được người xuất thân làm ngư nghiệp rất dễ, xuất thân ngư nghiệp hiển nhiên cũng phải tinh thông thuỷ tính .
Khó là ‘có kinh nghiệm kinh thương’ cái này xác thực không dễ .
Phải biết người Việt cổ ở Giao Chỉ lúc này cũng không chuộng buôn bán, cũng không phải ai đều như Lý gia .
Người Việt cổ sinh hoạt hiện tại càng thiên hướng trao đổi, đổi vật lấy vật dù sao Giao Chỉ tuy thuộc đất nhà Hán nhưng cũng không có tiền tệ thống nhất, trừ khi gần các đại thành như thành Long Biên chẳng hạn thì mới có thể giao dịch tiền đồng, càng ở nơi xa xôi càng yêu thích lấy vật đổi vật .
Dùng vật đổi vật . . . khó mà gọi là ‘có kinh nghiệm kinh thương’ .
Dĩ nhiên, như Trần Lãm không tính khó, như Thiên Sách Thượng Tướng – Bùi Quang Dũng mới tính là khó .
Yêu cầu cơ bản của hệ thống là ‘ Đọc nhiều sách xuất thân nông hộ, là người Việt, độ trung thành cao, biết văn biết võ .’
Xuất thân nông hộ thì dễ rồi nhưng mà xuất thân nông hộ lại còn đọc nhiều sách ? đùa gì thế ? .
Xuất thân nông hộ lại còn biết văn biết võ ? .
Còn cái gọi là độ trung thành cao cũng khó bình xét dù sao . . . lấy cái gì để xác nhận đối phương trung thành ? chẳng nhẽ còn phải học Lưu Bị ném A Đấu thử Triệu Vân ? .
Xuất thân nông hộ - đọc nhiều sách – biết văn biết võ . . . mấy cái này căn bản không mấy liên quan gì đến nhau nhất là nông hộ cùng đọc sách, đây là hai đường thẳng song song .
Thêm mấy trăm năm nữa thì không nói dù sao theo thời đại tiến lên, giấy được sản xuất càng ngày càng nhiều cũng càng ngày càng rẻ, sách quả thật có thể đến với càng nhiều người .
Tại Hán triều thì khác, muốn đọc sách khó cực kỳ .
Minh kế thừa ký ức của nguyên chủ, hắn nhớ cha hắn có một quyển thẻ tre, cha hắn đối với quyển sách này còn quý hơn tính mạng của mình .
Theo cha nguyên chủ tự hào khoe, đây là một bản Toán Kinh, cho dù chỉ là một phần không trọn vẹn của Toán Kinh cũng làm cha hắn coi trọng cực kỳ, nói là đồ vật quý giá nhất gia đình hắn cũng không quá .
Người bình thường ở thời đại này có thể nhận thức mặt chữ đã là quý, chạm được vào sách càng thêm quý, về phần ‘đọc nhiều sách’ đối với đại đa số mọi người đều là chỉ có trong mơ .
Trừ khi ngươi xuất thân sĩ tộc thì không nói, ngươi chỉ xuất thân nông hộ lấy cái tư cách gì đi đọc sách ? .
Mọi việc đều ti tiện – chỉ có đọc sách là thanh cao .
Ở thời đại này câu trên chính là ‘đạo lý’ là ‘thiết luật’ là phân chia giai tầng giữa sĩ tộc cùng đám bần nông, giửa giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị .
_ _ _ _ _ _
“Theo logic thông thường tất nhiên không khả thi “
“Tất nhiên cũng không phải là không tồn tại dạng người này ví dụ điển hình như Lưu Bị chẳng hạn, tuy đối phương suốt ngày treo trên miệng bản thân là Trung Sơn Tĩnh Vương hậu nhân nhưng trên thực tế nhà Lưu Bị rất nghèo, xuất thân cũng chỉ là nông hộ “
“Lưu Bị là điển hình học sinh nghèo vượt khó lại gặp chút may mắn, may mắn là thúc phụ nhà hắn có chút quan hệ hơn nữa cũng thương hắn, móc nối cho hắn đi theo học Lư Thực cho dù chỉ là ký danh đệ tử “
“Có thể theo học Lư Thực tất nhiên cũng coi như đọc nhiều sách, bản thân Lưu Bị tất nhiên là biết văn biết võ nhưng trường hợp như Lưu Bị thật sự quá khó để tìm huống chi hệ thống còn yêu cầu người Việt ? “.
“Người Việt ở thời đại này cho dù khổ sở cầu học cũng gần như không cửa, trừ khi xuất thân cường hào gia thế như Lý Tiến thì không nói “
“Bởi vậy . . . phải lách luật “ .
Trong đầu Minh rất nhanh có suy tính, hắn cảm thấy cách thông thường không được, nhất định cần lách luật .
Nhắc đến lách luật, trong đầu hắn nhớ lại vài ký ức không vui vẻ lắm .
Kiếp trước hắn làm lính đánh thuê, cũng đừng thần thánh hoá cái công việc này ít nhất là ở Thái Lan .
So với phường đâm thuê chém mướn bình thường chỉ hơn cái là có thể s·ử d·ụng s·úng mà thôi hơn nữa cuộc sống rất khổ .
Nói là lính đánh thuê nhưng càng nhiều thời gian vẫn cần làm khổ lực, giai đoạn ký ức này chắc chắn không vui vẻ gì dù sao ngay cả đám người được coi là quân phiệt ở Thái Lan cũng không phải cái gì quá bức cách .
Minh có thể nói thẳng, tất cả quân phiệt tại miền Nam Thái Lan mặt ngoài thì phong quang, trên thực tế là làm cẩu cho người khác, sau lưng mỗi quân phiệt đều có bóng dáng phú hào, không có bọn họ nuôi ngươi lại tính là cái thá gì ? .
Cũng nằm trong đống ký ức ‘không vui vẻ’ gì kia của Minh còn bao quát cả việc nhận nuôi trẻ dưới vị thành niên .
Tốt nhất là nhận nuôi cô nhi nhưng cô nhi thật ra không nhiều như vậy, miền Nam Thái Lan tuy loạn nhưng còn chưa đến mức như Trung Đông, cô nhi thậm chí bị quy thành ‘tài nguyên khan hiếm’ .
Người Việt Nam hay đồn nhau, hay sợ ‘mẹ mìn’ b·ắt c·óc t·rẻ e·m mang sang bán ở Trung Quốc nhưng trên thực tế đám buôn người kia chỉ cần có gan, chỉ cần có thể mang trẻ nhỏ bán sang miền Nam Thái Lan thì lợi tức lớn hơn sang Trung Quốc nhiều .
Quân lực chủ yếu của phiến quân Thái Lan tập trung ở trẻ vị thành niên, có sức trẻ, có máu liều đặc biệt nhất là tư duy không đủ chín chắn, máu nóng lên lại thêm một chút lợi dụ thì cái gì cũng có thể làm .
Đám trẻ vị thành niên này bị ví là ‘quân xanh’ .
Bản thân Minh trước đây cũng là ‘quân xanh’ hắn có thể còn sống chẳng qua vì hắn có một gia đình êm ấm, cũng có đi học, hắn có thể nói tiếng Việt, tiếng Anh thậm chí một chút tiếng Trung Quốc .
Nếu không có chút tác dụng này Minh đã sớm bị đẩy ra, sống hay c·hết thực sự khó nói .
Dĩ nhiên nếu ngươi sau vài ‘chiến dịch’ mà vẫn có thể còn sống, sẽ không ai coi ngươi là quân xanh mà thực sự trở thành ‘người mình’ trong mắt đám phiến quân .
Dù sao giống như ‘cô nhi’ thì ‘lão binh’ cũng là tài nguyên khan hiếm .
Lại nói tới ‘cô nhi’ cô nhi khan hiếm là bởi vì đám cô nhi này có độ trung thành gần như trăm phần trăm, chỉ cần ngươi biết đào tạo là được .
Đào tạo cô nhi tuy mất thời gian thậm chí mất cả chục năm nhưng ‘cô nhi’ có thể thực hiện những nhiệm vụ mà chỉ có bọn họ làm được, quan trọng nhất là trung thành cùng an tâm .
Những cô nhi này tuy mất thời gian đào tạo nhưng ngươi có thể tuỳ ý nắn chỉnh thành loại hình bản thân muốn, thành loại nhân tài bản thân muốn, thiên kỳ bách quái đủ mọi ngành nghề cùng thế mạnh, cho nên ‘cô nhi’ tại miền Nam Thái Lan rất có giá đặc biệt trong mắt các đại quân phiệt .
Khi hệ thống nhắc đến ‘làm người trung thành’ Minh ngay lập tức nghĩ đến cô nhi .
Còn ai trung thành hơn cô nhi bản thân nuôi nấng từ ngày bé ? hơn nữa phải biết hệ thống cũng không triệu hoán nhân vật cho hắn mà là cho Minh thẻ kỹ năng .
Người được đưa thẻ kỹ năng cũng cần học tập mà nói học tập thì Minh cũng không nghĩ ra ai làm tốt hơn ‘cô nhi’ .
Lấy ví dụ như trường hợp của thẻ Thiên Sách Tướng Quân – Bùi Quang Dũng .
Theo hệ thống yêu cầu, người như vậy rất khó tìm nhưng nếu chỉ cần tìm một cô nhi có xuất thân nông hộ thì lại dễ cực kỳ, sau đó dạy đứa nhỏ này đọc sách biết chữ không phải vừa vặn yêu cầu của hệ thống sao ? .
Minh cũng không có sách nhưng hắn có thể mượn Giả Tông, cho dù không mượn được Giả Tông hắn thậm chí có thể tự biên sách dù sao hắn tự nhận dùng kiến thức bản thân thêm vào tri thức hậu thế tổng hợp ra vài quyển sách không khó .
Lại cho đối phương luyện chút võ nghệ, cứ thế mấy năm tất nhiên hoàn thành yêu cầu của hệ thống sau đó có thể sử dụng thẻ kỹ năng, để đối phương bắt đầu tiếp nhận năng lực của Bùi Quang Dũng .
Càng nghĩ, Minh càng cảm thấy cái này có thể dù sao tại Hán triều, quý giá nhất là sách còn không đáng tiền nhất . . . đại khái chính là nhân khẩu .