Vì sao Hán Đế lại phái sứ đoàn đi sứ Mạc Bắc vào lúc này?
Thực ra nguyên nhân rất đơn giản, mọi người đều hiểu vô cùng rõ ràng. Mục đích của Hán Đế chính là muốn lôi kéo Nam Hung Nô Thiền Vu Hô Trù Tuyền.
Nói đến Hô Trù Tuyền, có lẽ rất nhiều người không biêt về hắn.
Hắn nguyên là huynh đệ Nam Hung Nô Thiền Vu Ư Phu La. Năm Hưng Bình thứ hai, Ư Phu La ốm chết, Hô Trù Tuyền kế nhiệm trở thành Thiền Vu của Nam Hung Nô.
Tuy nhiên thật ra bên trong chuyện này không hề có một tí quỷ kế, mưu mô gì. Sở dĩ Hô Trù Tuyền kế nhiệm chức Thiền Vu là bởi vì tập tục người Hung Nô cho phép điều đó. Dựa theo tập tục Hung Nô, huynh chết đệ kế thừa, rồi sau đó mới là người con.
Đương nhiên cũng có ngoại lệ.
Ví dụ như những năm đầu thời Tây Hán, Hung Nô Thiền Vu Mặc Ðốn giết chết cha và thúc phụ của mình, đăng ngôi Thiền Vu.
Nhưng không phải tất cả người Hung Nô đều có thể quả quyết, tàn nhẫn, thủ đoạn cao minh như Mặc Đốn. Ít nhất khiƯ Phu La còn tại vị ở Nam Hung Nô, chưa từng xuất hiện một nhân vật như Mặc Đốn. Đứa con của Ư Phu La tên là Lưu Báo, lúc đấy còn chưa đủ hai mươi tuổi. Tuổi con còn quá nhỏ, lại thêm Ư Phu La đột tử, Lưu Báo căn bản không có cơ hội, cũng không có năng lực và tư cách cùng sự từng trải để tranh đoạt ngôi vị Thiền vu với Hô Trù Tuyền. Cho nên Hô Trù Tuyền dễ dàng đi lên ngai vàng Thiền Vu.
Năm đầu Kiến An, Hán Đế dời đô về phía đông.
Lý Thôi, Quách Dĩ đương nhiên không thể ngồi nhìn Hán Đế bỏ trốn, thế là phái binh đi truy kích.
Hô Trù Tuyền lệnh Hữu Hiền Vương làm ti giám dẫn binh đi hộ giá, giao chiến ngăn chặn Lý Thôi. Sau khi Hán Đế dời đô đến Hứa huyện thì ti giámliền quay về Nam Hung Nô.
Trong mắt rất nhiều người, Hô Trù Tuyền rất tôn trọng Hán Thất, nếu không đã không quản ngàn dặm xa xôi để đến hộ giá.
Chẳng qua, lúc ấy Hán Đế vẫn chưa hoàn hồn hoặc nói vốn y không có lòng dạ nào để ý tới Hô Trù Tuyền, cho nên vẫn chưa ban thưởng cho cái gì. Nói một cách tổng thể, từ khi có nhà Hán đến này, Hán Đại đế vương phần lớn là đều coi người Hồ như hổ lang, lòng luôn sợ hãi, lại luôn khing thường người Hồ, coi bọn họ là man di. Về điểm này có thể thấy được khi Mông Điềm - đại tướng Tần quốc ngày xưa đánh đuổi người Hồ lùi lại ba nghìn dặm, Nam Hung Nô được giao cho mảnh đất Hà Nam để dưỡng sức.
Về điểm này, Tào Bằng vẫn không hiểu rõ cho lắm.
Có lẽ, cả đời hắn cũng không thể nghĩ thông suốt, rõ ràng khắp nơi thù hận, tại sao lại phải tạo một bộ dáng bố thí, đem mảnh đất Hà Nam màu mỡ giao cho Nam Hung Nô vậy? Đây hiển nhiên giống như câu chuyện xưa về người nông dân và con rắn. Khi người Hung Nô suy yếu, cúi đầu xưng thần, nắm giữ vùng đất Hà Nam, nghỉ ngơi để lấy lại sức lực. Chờ đến khi họ hồi phục sức mạnh, liền xuất binh tập kích, quấy rối, xâm phạm và cướp biên giới, cướp bóc người dân, Mạc Bắc máu chảy thành sông. Lịch sử đã từng chứng minh, người Hồ là một đám người không thể thuần hóa nổi nhưng các Hoàng Đế dường như quá mải đắm chìm trong suy nghĩ về Thiên triều thượng quốc, trước sau vẫn không học được bài học nào.
Chỉ cách nhau một dòng sông ư?
Thiên triều thượng quốc đời sau luôn dùng đến danh từ "quan hệ thân mật giữa hai nước" này để mà hình dung.
Nhưng trên thực tế, nếu tỉ mỉ nghiên cứu xuất xứ của cụm "cách nhau một dòng sông" này, thì có thể hiểu được đây không phải là lời ca ngợi gì.
Vị Phó xạ Cao Dĩnh của Tùy Văn Đế từng viết trong "Nam sử nhất trần kỷ hạ": Ta vì bách tính phụ mẫu, há có thể bỏ mặc người Hồ bên kia sông không cứu hay sao?
Cách nhau một con sông chính là muốn nói đôi bên chỉ cách nhau chiều rộng của một con sông mà thôi.
Tướng Tùy phạt Trần, mà Trần thì ở phía nam sông, ý của Tùy Văn Đế là một dòng sông nhỏ như vậy, ta bất cứ lúc nào cũng có thể vượt qua, cứu vớt bách tính thiên hạ. Cũng có nghĩa là nếu đã chinh phạt, sông Trường Giang và Hoàng Hàkhông đủ để ngăn cản quân đội của y.
Mối quan hệ giữa triều Hung Nô và Hán triều dường như cũng là như thế.
Tào Bằng loáng thoáng đoán ra mục đích Lưu Quang âm thầm xuất hiện trong sứ đoàn.
Kể từ khi Viên Thiệu bệnh chết, Tào Tháo đã thống nhấtphương bắc, đã không còn ai có thể ngăn cản y được nữa. Nhưng Hán Đế sao có thể cam tâm làm con rối cả đời? Sau trận chiến Quan Độ, uy tín của Tào Tháo ngày một lớn. Trên triều thậm chí đã xuất hiện lời đề xuất để Tào Tháo làm Thừa tướng, thống lãnh triều chính. Cho dù lời đồn này là tự phát, hay là do Tào Tháo ngầm ra tay, nhưng sự xuất hiện của nó đã chứng minh sức khống chế của Tào Tháo trong triều chính càng lúc càng mạnh. Hán Đế mơ hồ cảm thấy lo lắng.
Đồng minh Y Đai Chiếu ngày xưa hiện giờ chỉ còn Mã Đằng và Lưu Bị.
Mã Đằng chiếm đóng Tây Lương, thế lực rất mạnh. Nhưng vấn đề là Hán Đế trước sau vẫn e ngại binh sĩ Lương Châu, không dám tín nhiệm Mã Đằng. Năm xưa, binh lính Lương Châu của Đổng Trác đã gây ra biết bao tai họa cho triều Hán? Hán Đế đến nay nhớ lại vẫn còn như thấy mọi chuyện vừa mới xảy ra. Ai biết liệu Mã Đằng có phải là Đổng Trác thứ hai hay không? Ai biết binh lính Tây Lương bây giờ liệu có phải là binh lính Tây Lương của năm xưa hay không?
Cái gọi là một lần bị rắn cắn, mười năm sợ dây giếng, đại khái chính là như thế.
Hán Đế luôn cảm thấy rất phức tạp đối với thái độ mờ ám của Mã Đằng.
Y vừa hy vọng Mã Đằng giúp, song vừa đề phòng thủ đoạn của Mã Đằng.
Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu vì sao Mã Đằng cho đến nay vẫn chỉ có danh hiệu tướng quân An Thu, trước sau vẫn không được thăng chức.
Nhưng năm Kiến An thứ sáu, Tào Tháo phong Mã Đằng làm Chinh Nam tướng quân, chính thức mang danh tướng quân.
Lúc ấy, Viên Thượng sắp xếp cho Thái thú Quách Viện ở Hà Đông liên kết với Nam Hung Nô Thiền Vu Hô Trù Tuyền tấn công Quan Trung, giao chiến với Bình Dương. Mã Đằng tuyác cảm với Tào Tháo, nhưng cuối cùng vẫn quyết định xuất binh trợ giúp Tào Tháo. Hắn lệnh đứa con cả Mã Siêu lãnh ba mươi nghìn binh lính, trợ giúp Chung Do chống lại binh mã của Quách Viện, sau đó Quách Viện đại bại, quân Mã Siêu thắng trận, chém chết Quách Viện, lập nên chiến công hiển hách. Cũng bởi vậy, Hán Đế càng thận trọng hơn với Mã Đằng.
Về phần Lưu Bị…
Hiện giờ gã đang khốn đốn ở Kinh Châu, ngay cả sống cũng không thể sống yên.
Thế tộc Kinh Châu trước sau đều có ý thù địch với sự xuất hiện của Lưu Bị.
Mặc dù có đám người Y Tịch đang âm thầm ủng hộ, nhưng xem ra Lưu Bị muốn đứng vững ở nơi này cũng không phải chuyện dễ dàng gì.
Thế gia ở Kinh Châu thừa sức chèn ép Lưu Bị.
Mà trong đáy lòng Lưu Biểu còn còn một chút băn khoăn với Lưu Bị, thậm chí mơ hồ đứng về phe thế tộc Kinh Châu.
Hán Đế biếtmuốn trông chờ Lưu Bị trong chốc lát, dường như là không thể.
Người y có thể trông cậy vào, hoặc có thể cậy nhờ ở phương Bắc cũng chỉ còn Nam Hung Nô từng ủng hộ y trước đây.
Năm ngoái Nam Hung Nô bị Tào Tháo đánh bại, thiệt hại không nhỏ.
Sau đó, Hô Trù Tuyền mơ hồ dao động, khiến cho Hán Đế cảm thấy sợ hãi.
Y hy vọng Nam Hung Nô có thể tạo sức ép lên Tào Tháo, rồi sau đó y sẽ ra mặt, chiêu hàng Nam Hung Nô, tạo nên uy danh cho y.
Cho nên Hán Đế tất nhiên sẽ lôi kéo Nam Hung Nô.
Nếu Nam Hung Nô gia nhâp phe Hán Đế, y có thể phá rối Tào Tháo. Vậy tất nhiên đại nghiệp thống nhất phương bắc sẽ càng thêm gian khổ. Tào Tháo cũng nhìn ra vấn đề này, cho nên lệnh Điền Dự làm phó sứ, đi Mạc Bắc.
Điền Dự và người Hồ thường xuyên qua lại với nhau, y cũng hiểu rất rõ về tập quán của người Hồ.
Năm ngoái, Tào Tháo lại đánh bại Hô Trù Tuyền, nên chỉ cần y gây thêm một chút sức ép, tất nhiên sẽ khiến cho Hô Trù Tuyền không dám manh động.
Nói chung, đây là một ván cờ rất lớn.
Người chơi cờ là Tào Tháo và Hán Đế.
Tào Bằng cũng tốt, Lưu Quang cũng được, thậm chí bao gồm Nam Hung Nô, cũng chỉ là các quân cờ trên bàn cờ mà thôi.
Chẳng qua Tào Tháo không nghĩ tới, Hán Đế lại có thể phái Lưu Quang đi.
Nhưng quân cờ mà Hán Đế tín nhiệm nhất lại được ném lên bàn cờ ở Mạc Bắc này đã cho thấy Hán Đế hiện tại thật đã cùng đường, không còn cách nào khác nữa. Bằng không, với tính tình của Lưu Hiệp, chưa chắc y sẽ nể mặt, chịu lôi kéo Hô Trù Tuyền. Hiểu được điều bí ẩn trong đó, Tào Bằng chợt trở nên phiền muộn.
Nam Hung Nô.
Lúc này đây, nói gì hắn cũng phải phá hoại kế hoạch lôi kéo Nam Hung Nô của Hán Đế.
Hắn có thể tưởng tượng Hán Đế sẽ trả cái giá lớn thế nào. Nếu Nam Hung Nô thật sự đối mặt với Tào Tháo, chỉ sợ tình hình sẽ càng trở nên phức tạp, thậm chí rất có thể sẽ thoát khỏi quỹ đạo ban đầu của nó. Dù sao trong trí nhớ của Tào Bằng, ở thời kì Tam quốc, người Hồ cũng không có bất cứ hành động khác lạ nào, thậm chí vô cùng hiền lành.
Ít nhất trong lúc Tào Tháo còn đang sống, những người Hồ này và con cháu bọn họ đều lànhnhư cục đất. Ngược lại, sau thời kì Tam quốc, người Hồ nhiều lần xuất hiện trong tư liệu lịch sử, dần dần dung nhập vào lịch sử Hoa Hạ, cứ thế cho đến mãi về sau…
Trong lịch sử, mỗi một lần người Hồ nhảy vào chiến tranh ở Trung Nguyên với quy mô lớn thì đều sẽ mang lại tai họa cho Hoa Hạ.
Thời Tam quốc là như thế; cuối thời Đường cũng như thế.
Tào Bằng không có cảm tình gì với người Hồ, hắn dường như hiểu được mục đích lần này Tào Tháo phái sứ giả đến, chỉ sợ là muốn ngăn cản người Hồ tiến vào Trung Nguyên với quy mô lớn mà thôi. Ngồi trong lều quân, Tào Bằng hít sâu một hơi, chậm rãi lau thanh Hổ Bào Đao, đến lúc cần thiết, nếu phải giết chết Lưu Quang, hắn cũng sẽ không ngần ngại.
-Lãnh Khanh, ngươi đoán xem hôm nay ta đã gặp được ai?
Khi Tào Bằng vừa hạ quyết tâm sẽ giết chết Lưu Quang nếu cần thiết, Lưu Quang đã trở về doanh trại, đi vào một trướng nhỏ.
Trong trước, ánh nến mờ tối.
Một lão già đầu bạc đang lẳng lặng ngồi trên chiếu, nhắm mắt nghỉ ngơi.
Làn da lãotrắng bệch, dựa vào cách ăn mặc trên người thì lão giống như người phục dịch trong cung, nhìn qua đầy vẻ đe dọa.
Lãnh Phi!
Lão nhân này đúng là Thường thị Lãnh Phi trong cung, cũng là tâm phúc tín nhiệm nhất của Lưu Hiệp.
Lưu Hiệp lần này phái hai người Lãnh Phi và Lâm Nghi Hầu Lưu Quang đến, đủ biết y muốn lôi kéo người Nam Hung Nô đến thế nào. Năm Kiến An thứ năm, sau khi Lãnh Phi ám sát Tào Tháo thất bại liền mai danh ẩn tích, không còn có tin tức nào nữa.
Những ngườiquen lão trước đây đều nghĩ là lão đã chết.
Nhưng trên thực tế Lãnh Phi vẫn trong vườn trúc ở dưới Dục Tú đài, làm một lão thái giám quét dọn ở tế đàn.
-Hay là đã để lộ tin tức rồi?
Lưu Quang ngồi trước mặt Lãnh Phi ho nhẹ hai tiếng.
Hắn nói:
-Chắc là không phải. Khi ta thấy Tào Hữu Học, hắn dường như có giật mình, có chút không dám xác nhận thân phận của ta. Ta cũng không ở lại chỗ hắn lâu, liền vội vã rời khỏi. Theo ta thấy, Tào Hữu Học không phải đến vì chúng ta đâu.
-Ừ. Thật ra chiêu thức ấy của bệ hạ cũng không cao minh lắm.
Với trí thông minh của Tào Tháo, sao y có thể không phát hiện ra được? Chỉ là y cũng không có cớ ngăn cản sứ đoàn, nên mới phái người đến cản trở, đó cũng là chuyện bình thường. Tuy nhiên, Tào tặc không khỏi quá tự tin, mới phái tên tiểu tử chưa ráo máu đầu đó đến ngăn cản chúng ta.
Lãnh Phi dứt lời, đột nhiên cười khẩy một tiếng.
-Chi bằng để ta tới lấy mạng tên tiểu tặc kia.
Lưu Quang do dự một lúc, xua tay:
-Bây giờ không phải là lúc.
-Ồ?
-Theo ta thấy, Tào Bằng mặc dù biết được ta còn sống, nhưng sao có thể làm khó dễ ta được? Cùng lắm thì ta giành lấy chức chính sứ của Chu Lương, danh chính ngôn thuận đảm đương chức sứ giả, Tào Tháo cũng không thể nói gì hơn, trong tay ta có chiếu thư bệ hạ, cho nên không cần phải lo. Chẳng qua là đi từ chỗ tối ra chỗ sáng mà thôi, ta đường đường là hậu duệ hoàng thất, Tào Bằng là cái gì chứ?
Lãnh Phi cười mỉm, không nói.
-Cho nên Tào Bằng không làm gì được ta, hơn nữa ta đã sai người theo dõi hắn rồi.
Nhưng hiện tại nếu giết hắn, cũng không ổn thỏa cho lắm, nơi này ở quá gần Hứa Đô, giết Tào Bằng tất phải sẽ cho Tào Tặc cái cớ để hành động. Lãnh Phi, chúng ta tiến vào Mạc bắc, sẽ tính sổ với hắn. Đến lúc đó, cho dù có giết người này, Tào Tặc cũng không làm gì được.
Nhưng trước đó, xin Lãng Cung cố gắng đừng để lộ sơ hở, im lặng nhất có thể.
-Tào Bằng tuy đã biết ta ở đây nhưng vẫn không biết Lãnh Phi cũng đi theo. Đến lúc đó Lãnh Phi có thể đem…
Lưu Quang nói xong, giơ tay làm một động tác cắt cổ.
Lãnh Phi cười ha hả, gật đầu nói:
-Một khi đã như vậy, vậy để hắn sống lâu thêm hai ngày nữa.
Cuộc sống có đôi khi là kỳ diệu như thế này.
Tào Bằng vẫn cho rằng nếu sống ở hậu thế, hắn nói không chừng có thể cùng Lưu Quang trở thành bằng hữu, luận chuyện nâng cốc, thậm chí kết nghĩa kim lan.
Ngày nay sinh gặp thời loạn, hai người đều sẽ vì chủ của họ.
Tào Bằng có khát vọng của Tào Bằng, Lưu Quang có sự cố chấp của Lưu Quang.
Không người nào có thể nói rõ ràng được bọn họ ai đúng ai sai, tóm lại mọi người tuy kính nể lẫn nhau, nhưng lại không thể không động binh với nhau.
Tuy nhiên lúc này đây, Lưu Quang dường như đã chiếm thế chủ động.
Năm Kiến An thứ tám, Tôn Quyền lại một lần nữa chinh phạtThái thú Hoàng Tổ ở Giang Hạ.
Giang Đông to như vậy, Sơn Việt đột nhiên nổi lên, khiến cho Tôn Quyền không thể không dưa ra quyết định, tức khắc đưa quân bình định Sơn Việt.
Tôn Quyền lệnh Trung Lang Tướng Lã Phạm,Đãng Khấu tướng quân Trình Phổ, Đô úy Kiến Xương là Thái sử Từ chia nhau tấn công.
Sau đó, gã lại lệnh cho Bộ Tư Mã Hoàng Cái, Hàn Đương trấn thủ ở các huyện quân Sơn Việt thường xuyên lui tới, chờ tháng tư chiến tranh bình ổn…
Tào Tháo nhanh nhẹn, nắm bắt thời cơ, nhúng tay vào chuyện Giang Đông.
Chẳng ngờ có một chuyện xảy ra buộc Tào Tháo phải dốc toàn lực chú ý quay lại vùng đất Hà Bắc.
Tháng tư, Viên Đàm đề nghị đệ đệ là Viên Thượng tăng binh lính quân sở thuộc và đổi mới áo giáp, vũ khí, chuẩn bị ra quân tiến đánh Tào Tháo, thẳng tiến vào ngạn Hà Nam. Nào biết Viên Thượng lại hoài nghi Viên Đàm không thực lòng, từ chối lời thỉnh cầu của Viên Đàm. Viên Đàm nổi giận, lập tức khởi binh tiến đánh Viên Thượng. Hai bên giao chiến ngoài cửa Hàm Thành. Cuối cùng bởi vì thực lực của Viên Đàm không đủ, bị Viên Thượng đánh bại, tháng năm lui về giữ Nam Bì. Viên Đàm mặc dù đã lui binh nhưng Viên Thượng cũng không bằng lòng từ bỏ ý đồ, theo đuổi truy kích. Viên Đàm đại bại.
Sau đó Viên Đàm lui tới bình nguyên.
Mưu sĩ Tân Bì hiến kế bảo Viên Đàm có thể xin viện trợ từ Tào Tháo.
Sau khi Viên Đàm nghĩ kỹ, phái người đi từ Tân Bì tới Hứa Đô, xin hàng Tào Tháo và đề xuất yêu cầu xin kết thân với Tào Tháo.
Nói ra Viên Đàm cũng là vãn bối của Tào Tháo.
Tào Tháo vốn không muốn đồng ý, lại được Quách Gia khuyên bảo, cuối cùng cũng đồng ý để cho con trai Tào Chỉnh lấy con gái Viên Đàm. Thế nhưng Tào Chỉnh năm nay vẫn chưa đủ tuổi, con gái Viên Đàm cũng đã mười bốn. Kết quả của cuộc hôn nhân này như thế nào hoàn toàn có thể đoán được.
Tháng tư năm Kiến An thứ tám, loạn ở Giang Đông đã tạm thời được dẹp yên, thì Hà Bắc lạihỗn loạn.
Sứ giả Chu Lương và Điền Dự của Đại Hán đã tới Tiêu Quan.
Tiêu Quan nằm ở hướng đông nam của huyện Cố Nguyên, tỉnh Cam Túc của đời sau.
"Sử ký nhất niên biểu" có ghi lại, đông Hàm Cốc, nam Tình Võ, tây Tán Quan, bắc Tiêu Quan là bốn quan ải lớn của Quan Trung.
Trên vùng cao nguyên Giang Đông bao la là cổng đại môn phía bắc của Quan Trung. Từ thời chiến quốc tới nay, Tiêu Quan vẫn là con đường qua lại quân sự, văn hóa và kinh tế của Quan Trung và phương Bắc, là một trong những cửa khẩu lâu đời nhất trong lịch sử Trường Thành, vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng.
Nhưng qua loạn Lý Thôi, Quách Dĩ và trận hỗn chiến Quan Trung, Tiêu Quan đã trở nên hoang tàn.
Sau khi sứ đoàn tới Tiêu Quan liền ở lại ba ngày để bổ sung, cung cấp vật tư rồi mới tiếp tục tiến về phía biên cương xa xôi phía bắc.
Đi đường vất vả hồi lâu, Tào Bằng cuối cùng cũng được nghỉ ngơi.
Một ngày, hắn dẫn Hàn Đức, Vương song, dẫn theo Bàng Thống, thúc ngựa đi ra đại doanh môn.
Trong ấn tượng của nhiều người, Tiêu Quan gần như là một cửa ải quan trọng độc lập.
Nhưng trên thực tế, Tiêu Quan và Vạn Lý Trường Thành nhà Tần có vị trí chiến lược tương quan chặt chẽ. Tần Trường Thành cùng với viền Trường Thành xây dựng thành cửa ải bảo vệ thành trấn, hình thành một hệ thống phòng ngự hoàn chỉnh. Che chắn thành lũy của Cửa khẩu Quả Nhi Sơn, Ngọc Hoàng Sơn, Nguyên Tam Đại Phong cùng với Thành Tử Cương, Trần Gia Đài, Thành Đông Câu, tạo thành một bức thành chắn bằng sức người kiên cố. Tam Đại Phong được đặt tại điểm cao nhất trên Tiêu Quan, có thể nhìn được rất xa. Đồng thời, lại có thể nhìn xuống bao quát nước bao quanh, ba sông của Thành Tây Xuyên, Thanh Đông Câu đổ vào toàn bộ khu vực. Trong ngoài Quan năm kilomet là lòng chảo Sơn Xuyên, đường thôn xá đều có thể thu hết vào trong tầm mắt...
Cao thấp, ngang dọc!
Hình thành hệ thống phòng ngự lập thể.
Tiêu Quan thiết kế tỉ mỉ, bố cục tinh xảo, khiến hậu nhân nhìn mà thầm ca ngợi.
Hậu thế từng có một quyển sách "Bố cục Thiên Hạ", vô cùng tôn sùng đối với thiết kế của Tiêu Quan.
Tào Bằng trước đây chưa bao giờ tới Tiêu Quan, mà nay khi hắn leo lên Ngọc Hoàng Sơn, nhìn xuống quang cảnh Tiêu Quan thì cũng không khỏi vô cùng cảm khái.
Nhiều chiến loạn, khiến cho phòng ngự Tiêu Quan lộ ra sự tan hoang.
Trên Phong Hỏa Đài, Tào Bằng nhìn xuống trong ngoài Tiêu Quan, chỉ thấy trong Quan sông ngòi ngang dọc, dãy núi phập phồng; bên ngoài Quan đất trời một màu, mênh mông hùng vĩ... khiến cho trong lòng Tào Bằng nảy sinh sự trống trải vô tận.
Trong đầu, chợt hiện ra một câu thơ.
"Trước không gặp người xưa, sau không thấy người tới (2)
Nghĩ trời đất vô cùng, một mình đau thương mà rơi nước mắt..."
Năm xưa Tần Hiếu Văn Đế chăm lo việc nước được Thương Ưởng mà cải cách chính trị, khiến cho Đại Tần quật khởi.
Từ đó về sau, lại có Trương Nghi, Tư Mã Thác, Bạch Khởi, Phạm Thư, trải qua hai trăm năm thời gian lưu chuyển, cuối cùng có Thủy Hoàng Đế vung kiếm cắt đứt mây trôi, công tích của Tần Vương sớm không giống đời. Song khi Tần Nhị Thế chết, mà để lại, chỉ có tám trăm dặm Tần Xuyên này...
- Trước không gặp người xưa, sau không thấy người tới... Thật hay!
Tào Bằng đang lúc vô cùng cảm khái, chợt nghe phía sau truyền đến tiếng bước chân.
Hắn quay đầu nhìn lại, thấy Lưu Quang dẫn vào tên duệ sĩ đang cất bước leo lên Phong Hỏa Đài của Ngọc Hoàng Sơn.
Hai người trước đây đã từng gặp qua, Tào Bằng đã âm thầm báo với Điền Dự. Nhưng kỳ lạ là, Điền Dự đã vậy, Lưu Quang cũng thế, đều không hẹn mà cùng lựa chọn sự im lặng. Bởi Điền Dự nói, không hề ngạc nhiên về Lưu Quang, nhưng thật ra lại giảm bớt phiền phức.
Lúc đó Tào Bằng nghe không hiểu, đợi khi quay lại thương nghị với Bàng Thống, Bàng Thống đoán được sự sâu xa bên trong.
- Ai cũng đều nói, mục đích phái sứ đoàn đi của Hán Đế không đơn giản.
Tào Tháo mật lệnh Tào Bằng đi theo, giống như một quân cờ ngầm để giám sát động tĩnh sứ đoàn của Hán đế. Tào Bằng ở trong tối, Điền Dự ở ngoài sáng, mục đích là muốn biết rõ Hán Đế này rốt cuộc có thủ đoạn gì. Nếu Tào Bằng không phát hiện ra Lưu Quang thì Điền Dự sẽ rất đau đầu. Nhưng sau khi Tào Bằng phát hiện ra sự tồn tại của Lưu Quang, cũng chính là lúc Điền Dự như trút được gánh nặng...
Ta không sợ ngươi giở trò đủ kiểu, ta chỉ sợ là không biết là ai giở trò đủ kiểu thôi.
Nếu như Lưu Quang đã lọt vào tầm mắt, cũng đại diện là Điền Dự có thể bắn tên có đích, mà không đến mức như ruồi bọ không đầu.
- Nếu Lâm Nghi Hầu đã tới, sao không có kế sách đằng sau chứ?
- Hắn xuất hiện trong sứ đoàn, tất nhiên đã chuẩn bị tốt nếu bị phát hiện. Ta phỏng chừng, trong tay hắn nhất định sẽ có chiếu thư của bệ hạ... Một khi bị phát hiện mà không thể không đứng ra, hắn nhất định sẽ dựa vào chiếu thư, bãi miễn chức Chu Lương, chạy tới trước đài.
Nếu Lưu Quang nghe thấy những lời này của Bàng Thống, nhất định sẽ thay đổi chủ ý.
Nói không chừng, hắn sẽ ra tay giết chết Bàng Thống, bởi vì sự suy đoán của Bàng Thống trên cơ bản rất khớp với việc thực.
Vậy chẳng khác nào hắn bị bại lộ.
- Vậy có liên quan gì? Lẽ nào Tào Công không hiểu mục đích bệ hạ phái sứ đoàn hay sao?
- Tào Công nhất định rất rõ điểm này, cho nên mới thâm âm thầm cho người đi theo. Lâm Nghi Hầu ở trong tối và chỗ sáng cũng không khác nhau mấy, chẳng qua chỉ là ở trong tối, y có thể thuận tiện hành sự, mà ở chỗ sáng, lại cần phải có sự kiêng dè. Ta còn dám khẳng định, trong tay Điền Quốc Nhượng cũng có một phần mật lệnh. Ngay lúc cần thiết, Điền Dự sẽ đẩy ngươi ra đấu thương đao với Lưu Quang... Đây là dương mưu, Tào Công cũng tốt, bệ hạ cũng được, đều đem mưu kế bày ra chỗ sáng. Chỉ xem thủ đoạn của ai cao minh hơn, tâm tư kẻ đó càng kín đáo.
Bàng Thống nói đến đây, cũng không giấu được vẻ kính phục.
Trong lòng Tào Bằng âm thầm giật mình, Tào Tháo có thủ đoạn như vậy, hắn cũng không thấy kỳ lạ, nhưng Hán đế Lưu Hiệp.... Hoàng đế cực kỳ hèn nhát trong lịch sử, Thụy Hiệu là "Hiến" kia, rõ ràng cũng có loại tâm kế này là vượt xa dự liệu của Tào Bằng.
Lưu Quang tươi cười đi lên.
- Không ngờ, đỉnh đỉnh đại danh Tào Tam Thiên, lại thay hình đổi dạng.
Tào Bằng cũng lấy lại tinh thần, trên mặt cũng lộ ra dáng vẻ tươi cười xán lạn:
- Ta chỉ là một thường dân, làm sao so được với Lâm Nghi Hầu?
Ta là thường dân, không có chức quan gì, thay hình đổi dạng là rất bình thường.
Thế nhưng ngươi đường đường là dòng họ Hán thất, Lâm Nghi Hầu... bộ dạng cũng chẳng khác gì ta?
Trong lời nói, bất giác lại đối chọi gay gắt. Lưu Quang nhìn Tào Bằng, một lát sau, đột nhiên than khẽ một tiếng...
Y quay người, tay vịn vào lỗ châu mai Phong Hỏa Đài, đưa mắt nhìn quang cảnh xa xa trong Quan.
- Giang sơn thật đẹp!
Còn Tào Bằng lại hướng nhìn ra ngoài Quan, bừng tỉnh lẩm bẩm:
- Quả nhiên là giang sơn đẹp!
Nghe, tựa như hai người đều tán thưởng giang sơn đẹp vô cùng, nhưng thực tế, trong giọng nói đều ngầm chứa một sự giao phong.
Lưu Quang nói "Giang sơn đẹp" là nói cho Tào Bằng: Đây là giang sơn Đại Hán.
Ngụ ý, nhắc nhở bất kể là Tào Tháo thế nào, ông ta thủy chung vẫn là thần tử Đại Hán. Tào Bằng ngươi, cần phải quy thuận Hán thất.
Mà Tào Bằng nói "Quả nhiên giang sơn đẹp" không khỏi có ý châm chọc.
Giang sơn đẹp như vậy lại bị các ngươi thống trị trở thành bộ dạng ngày hôm nay. Nhớ năm xưa, Hán Vũ Đế tấn công dân tộc Hung Nô phía Bắc, Ban Định Viễn làm Tây Vực kinh sợ. Tiếng kêu khàn của Trần Thang kia "Kẻ nào dám xâm phạm triều đại nhà Hán cường mạnh của ta, tất sẽ bị trừng trị" vẫn còn vang vọng bên tai, nhưng là các ngươi lại đem giang sơn đẹp này nộp cho người Hung Nô để phục hồi. Giang sơn đẹp như vậy, các ngươi xứng sao?
Hai người đồng thời quay đầu lại, trong ánh mắt đã ngấn lệ.
Sau một lúc lâu, Lưu Quang đột nhiên cười nói:
- Từ lâu đã nghe tiếng Tào Tam Thiên thi tài tuyệt luân, phong cảnh đẹp như vậy, sao không làm một bài thơ. Tương lai, đợi ta ra khỏi phía bắc Tiêu Quan, coi như đây là đề, làm được không?
Tào Bằng ngẩn ra, chợt nở nụ cười!
Mặt trời lặn dưới sông dài, chiếu tàn hồng lên cố lũy phương Bắc. Vùng quê mênh mang, hiện ra cảnh sắc hùng vĩ, như có như không, tựa như có tiếng âm thanh hồ cà mơ hồ vọng đến. Chắc chắn là tiếng ca của người chăn nuôi.
Gió, từ phương bắc kéo tới, nhưng lại lạnh lẽo.
Tào Bằng lấy một cây sáo bên hông ra đặt bên môi thổi. Âm sắc của sáo cao vút, mang theo âm điệu thê lương tịch liêu, là nhạc khi trong quân thường dùng.
Thổi một khúc xong, Tào Bằng xoay người rời đi.
Lưu Quang ngạc nhiên nhìn theo lưng hắn, vừa định mở miệng, lại nghe Tào Bằng ngâm:
" Ngồi trên xe hỏi đường đi(3)
Thân làm quan ta đi tới biên thùy
Ngọn cỏ bồng bay ra khỏi ải Hán
Nhạn bay về vào trời Hồ
Sa mạc mênh mông, ngọn khói bay thẳng lên trời
Sông dài, mặt trời lặn tròn vo
Ra tới ải Tiêu Quan, gặp lính cưỡi ngựa
Quan đô hộ đang ở Yên Nhiên"
Ngâm xong, Tào Bằng đã đi xuống Phong Hỏa Đài, trèo lên yên ngựa.
Lưu Quang kinh ngạc đứng ở trên Phong Hỏa Đài, hơn nửa ngày mới nói:
- Hay cho một Tào Tam Thiên, hay cho một Đô hộ tại Yến Nhiên...
Sự tính toán tràn ngập trong lòng chớp mắt lay động tan biến hết.
Vinh quang Hán Thất năm xưa, nay đã không còn.
Nhớ năm xưa, Phiêu Kỵ ra trấn, trường cừ lục cử, mã hãn huyết nhanh như sấm chớp, Phong Lang ở núi, Tây cảnh sông lớn, liệt quận kỳ liên. Nhưng hiện giờ, lại phải cúi đầu với Hung Nô, cùng liên hoành với người Hồ... Tổ tiên mà biết nhất định hận con cháu bất tài.
Chút lòng tính toán trước đó này, nay lại nảy sinh gợn sóng.
Lưu Quang làm sao không biết, lần này Hán Đế và dân tộc Hung nô phía Nam liên hợp thành công chẳng khác gì bảo hổ lột da. Cho nên cái giá phải trả vô cùng kinh người... Nhưng nếu không liên hợp cùng dân tộc Hung nô, còn có biện pháp nào nữa, chấn hưng uy phong Hán Thất ư? Trong tay không binh lính, võ tướng bên người, Hán đế hôm nay tại Hứa Đô như một con rối, dĩ vãng lâu dài, Hán thất chắc chắn bị diệt...
Uống rượu độc giải khát!
Không sai, cách làm của Hán đế hiện tại, chính là uống rượu độc giải khát.
Biết rõ hại rất lớn, hết lần này tới lần khác lại phải đi. Lưu Quang sẵn sàng liên hợp cùng dân tộc Hung Nô phía Nam. Nếu không liên kết cùng người Hung Nô, lấy ai trợ giúp đây? Nói cách khác, dòng họ Hán thất này, con cháu Lưu Biểu, Lưu Chương đều không có thái độ làm người, cố thủ một vùng như chó giữ nhà... Chiếu lệnh của Hán Đế, hai người này căn bản không để tâm tới. Nếu bọn họ có nửa điểm tính cách hoàng tộc, Hán Đế cũng không đến mức bất lực giống như bây giờ. Lưu Biểu thì không cần phải nói, đơn giản chỉ nói Lưu Chương kia, quả thực chính là... Năm xưa Hán Đế phái ba quận Thái Thú, nhưng đều bị Lưu Chương giết chết. Hiện giờ tại Tây Xuyên, nghiễm nhiên tự lập làm Vương.
Tào Hữu Học à Tào Hữu Học, ta làm sao mà mong muốn cấu kết với người Hồ chứ?
Trong lòng Lưu Quang nặng trĩu, một sự uất ức khiến y như muốn nổ tung.
Chợt nghe, xa xa vọng đến tiếng ca, xúc động hào hùng.
Lời ca:
Làm trai sinh ở đời,
Lớn phải lập danh cao.
Đánh dẹp có công nghiệp.
Há giữ mãi làng sao?
Mộ lính đến Kế Môn.
Quân trẩy, cầm được đâu.
Ngàn vàng sắm roi ngựa.
Trăm vàng sắm lưỡi đao.
Làng xóm tiễn lên đường.
Bà con quây lấy nhau.
Tóc bạc ngồi trên hết,
Rượu trước, thức ăn sau.
Ra đi trai được tặng,
Mỉm cười ngắm gương trao.
Tiếng ca dần xa dần xa dần.
Lưu Quang cũng đã lệ rơi đầy mặt.
Y đã không muốn tiếp tục ở lại trên Phong Hỏa Đài nữa, mà chỉ muốn nhanh chóng rời đi.
Trở lại trong doanh, y chạy thẳng vào trong lều nhỏ, đờ đẫn ngồi đó...
Rèm trướng vén lên, từ bên ngoài đi vào một ông già.
- Lưu Hầu, cớ gì mà bi thương?
- Lãnh Cung, ta...
Người đi vào, chính là Lãnh Phi.
Ông ta vốn đang tĩnh tọa trong trướng, chợt nghe có tiếng người, là Lâm Nghi Hầu tâm tình không tốt, vì vậy vội vã đi tới. Thấy Lưu Quang trên mặt đầy nước mắt, Lãnh Phi lại càng hoảng sợ. Trong ấn tượng của ông ta, Lâm Nghi Hầu là một người vô cùng mạnh mẽ... Dù là năm xưa tại Trường An từng chịu sự ức hiếp của Lý Thôi, Quách Dĩ nhưng cũng chẳng bao giờ thấy y chảy nước mắt. Nhưng hiện tại, y khóc như một đứa trẻ.
- Lưu Hầu, xảy ra chuyện gì?
- Ta...
Lưu Quang lau nước mắt trên mặt, khẽ hỏi:
- Lãnh Cung, chúng ta liên hoành với người Hồ, là sai đúng không?
- Lưu Hầu, cớ sao lại hỏi vậy?
Từ lúc Lưu Quang bị gọi là "chó Nhà Hán" tới nay, y cho tới bây giờ đều là kiên định chấp hành mệnh lệnh của Hán Đế.
Tất cả việc làm của Hán Đế, đều là chính xác.
Dù cho Hán Đế muốn y giết người, Lưu Quang cũng không chút nào do dự.
Nhưng hiện tại...
Lãnh Phi có thể cảm giác được, trong lòng Lưu Quang đầy nỗi đau khổ và bi thương. Ông ta ngồi xuống, khẽ khàng xoa lên vai Lưu Quang:
- Lưu Hầu, trong lòng có gì không thoải mái, hãy nói cho lão nô. Nhưng đối với bên ngoài, ngài ngàn vạn lần không được nói những lời này.
- Vì sao?
- Bệ hạ sao không biết, cùng liên hoành với dân tộc Hung Nô, chẳng khác nào bảo hổ lột da. Nhưng thời thế bức bách, nếu không cùng dân tộc Hung Nô liên hoành, tiếng nói của bệ hạ trong triều nhất định sẽ càng ngày càng kém... sau cùng.... Lão nô cũng không muốn liên hoành cùng người Hung Nô, nhưng lấy tình hình hiện nay mà nói, liên hoành với người Hung Nô, là lối thoát tốt nhất.
- Ta biết, thế nhưng ta...
- Lưu Hầu, ta biết ngươi không muốn làm chuyện đó. Nhưng nếu bệ hạ đã ra chiếu lệnh, chúng ta nhất định phải làm việc này cho tốt. Tương lai sẽ thế nào, không phải ngươi ta có thể lo lắng...Chúng ta hiện tại phải làm, phải lo lắng, chính là trợ giúp bệ hạ nắm giữ triều đình, khôi phục là vinh quang giang sơn nhà Hán ta.
Vinh quang?
Là cùng liên kết với dân tộc Hung Nô, giang sơn nhà Hán còn có gì vinh quang.
Lần này nếu thực sự là liên kết thành công, chỉ sợ sẽ không sánh được với Cao Tổ đánh Bạch Đăng năm xưa..., tất nhiên sẽ trở thành đại sỉ nhục của Nhà Hán.
Lúc đó, tên của mình...
Lưu Quang nhắm mắt lại, lộ ra thần sắc thống khổ.
Lãnh Phi còn muốn khuyên bảo Lưu Quang, thấy Lưu Quang nhẹ nhàng khoát tay:
- Lãnh Cung, ta rất mệt, để ta yên lặng một chút.
- Vậy... Lưu Hầu bảo trọng.
Lãnh Phi biết, lúc này nói gì cũng không có tác dụng.
Ông ta tin tưởng, với tài trí của Lưu Quang, rất nhanh sẽ tỉnh táo lại. Mà Lúc này, chỉ là tâm trạng của y dao động chút thôi.
Đi ra khỏi lều, Lãnh Phi sau khi có chút do dự, ngoắc một gã duệ sĩ tới.
Duệ sĩ này, ban đêm cùng đi theo Lãnh Phi đến Ngọc Hoàng Sơn. Lãnh Phi hỏi:
- Các ngươi hôm nay tại Ngọc Hoàng Sơn, đã xảy ra chuyện gì? Ngươi nhất định phải nói rõ ràng cho ta biết, không được có chút sơ suất nào.
Duệ sĩ suy nghĩ một chút, nói;
- Hôm nay chủ công đi lòng vòng trong thành, chợt nảy sinh ý nghĩ muốn lên Ngọc Hoàn Sơn du ngoạn. Tuy nhiên, tại Ngọc Hoàn Sơn chúng ta gặp một số người, hình như chủ công có quen biết những người này, cùng nhau nói chuyện một lúc...
Duệ sĩ đem sự việc kể lại tường tận cho Lãnh Phi nghe. Lãnh Phi sau khi nghe xong, cau mày.
Làm trai sinh ở đời,
Lớn phải lập danh cao?
Ông đã kinh qua thói đời, sao không thể hiểu được vì sao Lưu Quang gặp phải tỉnh cảnh này trong lòng lại dao động.
Đôi mắt chau lại thành một kẽ hở, trong lòng đột nhiên nảy sinh ra sát khí vô tận. Tào Bằng, tên Tào Bằng chết tiệt... Hắn bao lần phá hỏng chuyện tốt của bệ hạ, hôm nay lại làm dao động lòng tin của Lâm Nghi Hầu, khiến Lâm Nghi Hầu nảy sinh sự bất mãn đối với bệ hạ. Người này nếu sống, nhất định sẽ là tai họa cho Đại Hán ta. Nếu không nhanh chóng diệt trừ, lần này đi sứ chỉ sợ sẽ gặp phải khó khăn.
Không được, phải diệt trừ người này!
Lãnh Phi đột nhiên hừ lạnh một tiếng, trên mặt hiện ra sự uy nghiêm đáng sợ.
***
Đêm thâm trầm, trong doanh tiếng điêu đẩu (4) không dứt.
Tào Bằng đang mơ màng ngủ bỗng nhiên giật mình một cái, ngồi bật dậy thở ra, tay bắt lấy Hổ Bào Đao xiết chặt...
Cớ gì mà tim lại xung động?
(1): Bài thơ Hậu xuất tái kỳ 1 của Đỗ Phủ, bản dịch thơ của Khương Hữu Dụng
(2) Đăng U Châu đài ca của Trần Tử Ngang
(3): Bài thơ Sứ chí tái thượng của Vương Duy, bản dịch thơ của Vanachi
(4) Điêu đẩu: dụng cụ trong quân, đúc bằng kim loại, to bằng cái đấu, binh lính ban ngày dùng để thổi cơm, ban đêm để gõ cầm canh.