Đoàn thuyền dưới sự chỉ huy của Ulysse ra đi. Sau một chặng đường khá dài, họ tới hòn đảo của Éole, một vị thần cai quản các ngọn gió vốn được các vị thần trên đỉnh Olympe rất đỗi sùng ái. Đảo của Éole rất kỳ lạ. Đó là một hòn đảo di động nổi trên biển khơi, được bao quanh bằng một bức tường đồng kiên cố, và trên bức tường đó là một ngọn núi đá nhẵn bóng vươn thẳng lên trời. Đặt chân lên hòn đảo kỳ lạ đó, đoàn thủy thủ của Ulysse được đón tiếp ân cần niềm nở. Thần Éole mời các vị khách vào nghỉ trong lâu đài, và suốt một tháng trời, vợ chồng, con cái Éole chiêu đãi trọng thể những vị khách quý. Thần Éole hỏi chuyện tỉ mỉ Ulysse về cuộc Chiến tranh Troie, về các dũng tướng và hành trình trở về của họ. Đến ngày Ulysse xin phép ra đi, thần Éole lại ban cho thủy thủ lương thực và nước ngọt cùng với nhiều tặng phẩm quý giá khác, nhưng quý giá vô ngần là một chiếc túi bằng da bò. Là người được thần Zeus giao cho sứ mạng cai quản các ngọn gió, Éole đã bắt nhốt chặt những ngọn gió vào trong chiếc túi đó. Đích thân Éole đã đem chiếc túi xuống lòng thuyền của Ulysse, buộc chặt miệng túi bằng một sợi dây to làm bằng bạc sáng loáng. Thần ngại nếu buộc không chặt nhỡ ra một ngọn gió hung dữ cựa quậy thoát ra ắt gây nên muôn vàn nguy hiểm. Khi đoàn thuyền nhổ neo, thần Éole lại cho một ngọn gió Tây đưa đoàn thuyền đi, và đoàn thuyền đã lướt nhanh như bay trên sóng biển hung dữ. Đoàn thuyền đi, đi suốt chín ngày chín đêm. Đến ngày thứ mười, Ulysse và anh em thủy thủ đã xúc động khi trông thấy xa xa hiện lên mảnh đất quê hương. Họ lại càng xúc động khi trông thấy những ngọn khói từ đống lửa của những người chăn cừu, chăn dê, uốn lượn nhẹ nhàng, bốc lâng lâng trên nền trời xanh. Chẳng còn mấy nữa thì tới nhà, tới hòn đảo Ithaque quê hương thân thiết, nhưng có ai ngờ một tai biến vô cùng xót xa đã xảy ra.Chuyện xảy ra như sau: lúc này Ulysse vì mệt mỏi quá nên ngủ thiếp đi. Nhìn vào hoàn cảnh thuận lợi đó, một số anh em thủy thủ cho rằng chỉ có cơ hội này là tốt nhất để họ có thể khám phá xem chiếc túi da bò đựng những gì. Hẳn rằng chỉ có những báu vật: vàng bạc, ngọc quý, tóm lại là châu báu. Thần Éole đã ban tặng cho Ulysse, nhưng hắn ta đã giấu giếm mọi người, không muốn chia cho ai một chút nào cả. Hắn ta định chiếm đoạt tất cả để khi trở về quê hương hắn trở nên giàu có hơn mọi người. Không được, không thể chịu như thế được. Lẽ nào sau bao nhiêu năm chinh chiến, chúng ta trở về quê hương, gia đình với đôi bàn tay trắng! Những người thủy thủ nghĩ như vậy, bàn bạc với nhau như vậy, và họ đã mở tung chiếc túi da bò ra. Thế là các ngọn gió hung dữ được giải thoát. Mặt biển đang yên tĩnh phút chốc trở nên xao động khác thường. Mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến. Mưa trút xuống, bão tố nổi lên, gió từ các hướng vật vã, quay cuồng, sóng đại dương dâng lên cao ngút. Đoàn thuyền của Ulysse bị sóng gió đẩy bạt ra khỏi vùng biển quê hương, trôi dạt đến một hòn đảo. Đó là hòn đảo mà chín ngày, chín đêm trước đây nó đã từ giã; hòn đảo của vị thần Éole, Ulysse và anh em thủy thủ lên đảo, đến gập mình tạ tội trước thần Éole. Chàng kể lại sự tình và khẩn khoản kính xin thần cai quản các ngọn gió rộng lượng giúp đỡ mình một lần nữa, nhưng thần Éole nổi giận, quát mắng đuổi bầu đoàn Ulysse cút ngay khỏi hòn đảo của thần, không được chậm trễ. Thần Éole không thể chứa chấp và giúp đỡ một lũ người đã bị các vị thần Olympe và Số mệnh ghét bỏ.Mọi người đành phải ra đi. Nỗi ân hận và xót tiếc đè nặng trong lòng mỗi người. Sáu ngày sáu đêm đoàn thuyền đi không nghỉ trên biển khơi tím ngắt. Đến ngày thứ bảy đoàn thuyền đi vào bến cảng của một hòn đảo, xứ sở của những người khổng lồ Lestrygons. Đây là một bến cảng kín đáo, một cái vịnh nhỏ ba bề là núi, chỉ có một lối hẹp đi vào. Thuyền của anh em neo đậu sâu vào bên trong, sát bờ. Thuyền của Ulysse đậu ở mé ngoài, chỗ lối của vịnh đi ra khơi. Sau khi các thủy thủ neo đậu buộc con thuyền chắc chắn, Ulysse lên một ngọn núi cao để quan sát phía trong hòn đảo. Chàng chẳng thấy người, chẳng thấy một đàn bò, một đàn dê hay một đàn cừu nào hết. Cũng chẳng nhìn thấy một làn khói nhẹ, mỏng manh nào bốc lên từ hang núi hay đồng cỏ. Chàng bèn cử ba anh em thủy thủ đi sâu vào trong hòn đảo để xem xét tình hình. Ba thủy thủ từ núi cao đi xuống theo một con đường nhỏ, con đường dẫn vào đô thành của những người khổng lồ Lestrygons. Đi một hồi lâu thì những người thủy thủ đã trông thấy cổng thành. Trước cổng thành họ gặp một người. Thật khủng khiếp! Đó là một nàng khổng lồ đang múc nước. Một thủy thủ bình tâm lại, cất tiếng hỏi:- Hỡi nữ chúa có thân hình cao lớn khác thường! Xin nàng tha lỗi cho sự đường đột của chúng tôi. Chúng tôi từ một xứ sở xa lạ lạc bước đến đây. Chúng tôi muốn xin nàng chỉ bảo cho biết đây là xứ sở nào, vị vua nào được thần Zeus yêu mến ban cho cây vương trượng để trị vì muôn dân. Chúng tôi muốn biết đường vào cung điện để cầu xin sự giúp đỡ của đức vua.Nàng khổng lồ đáp lại:- Hỡi những người khách lạ! Đây là xứ sở của những người khổng lồ Lestrygons sống dưới quyền trị vì của nhà vua Antipathès, và ta chính là con gái của nhà vua. Ta từ cung điện trong đô thành ra đây lấy nước, vì chỉ có nước của con suối Gấu này là trong trẻo và ngọt ngào hơn cả. Các người muốn gặp cha ta ư? Thật chẳng khó khăn gì. Đường đây, và nhà kia, ngôi nhà có mái cao hơn cả, đó chính là cung điện nơi mẹ cha ta đang ở. Các người hãy mạnh dạn đi thẳng vào cung điện bày tỏ nguyện vọng của mình.Ba người bèn cảm tạ lòng tốt của nàng khổng lồ đi thẳng đến ngôi nhà có mái cao. Bước chân vào trong nhà họ gặp ngay một bà khổng lồ cao lớn như một ngọn núi. Mọi người đều kinh hoàng, chân tay run lẩy bẩy. Đó là vợ của vua khổng lồ Antipathès. Vừa thấy những người khách lạ, mụ ta chẳng chào hỏi tiếp đãi. Mụ ta quát ngay gia nhân phải chạy ra quảng trường mời đức vua về. Một lát sau Antipathès trở về tiếp khách. Nhà vua nói:- Hỡi những người khách lạ! Chúng ta rất sung sướng được đốn tiếp các vị. Các vị đã đem đến cho ta món ăn tuyệt vời vì những người khổng lồ Lestrygons xưa nay không sống bằng bánh mì. Họ ăn thịt, và trong các thứ thịt thì thịt người là ngon nhất.Antipathès nói xong liền đưa tay chộp lấy một người, cầm hai chân dốc xuống đất. Hắn sẽ rút gươm cắt tiết để nấu ăn đây. Nhanh như một con chim ưng, hai thủy thủ còn lại băng mình chạy. Họ cắm đầu bỏ chạy, chạy thục mạng một hơi về thẳng chỗ đoàn thuyền đang neo đậu. Antipathès thấy vậy liền thét lớn, ra lệnh báo động và truy đuổi. Cả đô thành nhốn nháo hẳn lên. Những người khổng lồ Lestrygons từ khắp các ngả chạy ra tay cầm những ngọn lao và những cây đinh ba. Chúng chạy tắt bằng những con đường lên các ngọn núi cao, và từ trên những ngọn núi cao chúng trông thấy đoàn thuyền đang neo đậu gần bờ. Thế là chúng bửa núi lấy đá ném tới tấp xuống đoàn thuyền. Những tảng đá to, nặng như những con bò béo mập thi nhau giáng xuống như một trận mưa rào. Cảnh tượng diễn ra thật vô cùng khủng khiếp. Thuyền vỡ tan tành. Người chết ngổn ngang. Kẻ vỡ sọ, bẹp ruột, kẻ gãy tay, gãy chân nằm rên la, kêu khóc. Sau khi giáng xuống những trận mưa đá, lũ khổng lồ Lestrygons liền cầm lao và cầm đinh ba chạy xuống núi đến khu vực đoàn thuyền. Chúng vui mừng reo hò trước chiến công lẫy lừng. Cầm những cây lao và đinh ba, chúng xiên người như ta xiên cá mang về đô thành làm một bữa tiệc linh đình mừng chiến thắng.Vào lúc những tảng đá đầu tiên của lũ Lestrygons trút xuống đoàn thuyền, Ulysse thấy ngay cái chết kề bên. Chàng bèn rút gươm chém đứt phắt các dây buộc thuyền và ra lệnh cho anh em thủy thủ dốc sức chèo mau, chèo mau ra khơi để thoát khỏi tai họa. May mắn làm sao, lũ Lestrygons không để ý đến con thuyền của Ulysse đậu ở ngoài xa, nhưng cũng đau đớn xót xa làm sao vì tai họa quá ư nặng nề, khủng khiếp. Đoàn thuyền mười hai chiếc với bao anh em thủy thủ từ nay chỉ còn lại có một chiếc, một chiếc thuyền do Ulysse chỉ huy. Mười một chiếc kia với bao anh em thủy thủ đã vĩnh viễn không còn được hưởng niềm hạnh phúc của ngày về đoàn tụ với quê hương gia đình.