Hôm sau, quả nhiên Lý Hư Bạch vẫn đến như đã hẹn, Thanh Đàn cảm thấy những gì hắn biết chắc chắn nhiều hơn Liên Ba, thế là không nhịn được mà hỏi Thanh Điểu là ai, vì sao Di Vi lại muốn xuất hiện, Lý Hư Bạch vẫn nói câu đó: “Mấy ngày nữa cô sẽ biết hết thôi.”
Thanh Đàn hậm hực nhìn hắn chằm chằm: “Rốt cuộc là mấy ngày?”
Lý Hư Bạch suy nghĩ một chút: “Chắc không quá bảy ngày.”
Không hỏi ra được tin tức mấu chốt, Thanh Đàn đành phải thay đổi chủ đề câu chuyện: “Xuyên ca đã bỏ độc vào tiên nhân trạng, vì sao huynh không trúng độc?”
Lý Hư Bạch rất tốt bụng mà nói cho nàng biết: “Bởi vì cách ta lấy không phải giống như cách cô nghĩ.”
Lý Hư Bạch nhìn dáng vẻ ỉu xìu của Thanh Đàn, lộ ra chút ý cười: “Có điều, cho dù ta trúng Chiêu Hồn Dẫn cũng không sao.”
“Huynh bách độc bất xâm sao?”
“Không phải, ta biết giải độc.”
Thanh Đàn kinh ngạc: “Đó là độc dược độc môn của Xuyên ca mà, huynh biết giải sao?”
Lý Hư Bạch: “Đương nhiên là biết.”
Thanh Đàn chán nản, việc này cũng mất mặt quá đó, hóa ra hắn luôn âm thầm núp trong bóng tối nhìn bọn họ làm việc tốn công vô ích!
“Lúc huynh đùa giỡn bọn ta trong lòng bàn tay có phải đắc ý lắm không?” Thanh Đàn vô cùng tức giận, nói một lúc thì muốn ra tay, Lý Hư Bạch nghiêng mình tránh quả đấm của nàng, thuận thế cầm cổ tay nàng, Thanh Đàn trở tay nhéo tay hắn thật mạnh.
Lý Hư Bạch hít sâu một hơi, bất đắc dĩ nói: “Nói dối thì phải cưới cô, nói thật cũng sẽ bị đánh, cô có còn nói lý nữa không?”
Thanh Đàn vốn cảm thấy ấm ức, nghe được những lời này thì không nhịn được mà muốn cười.
Lý Hư Bạch nhìn thấy ý cười trong mắt nàng thì mới buông tay nói: “Sau đêm giao thừa mấy ngày ta lại đến.”
Thanh Đàn có lòng tốt nói: “Nếu như huynh cảm thấy vắng vẻ thì chi bằng đến đón giao thừa ở đây đi. Lúc đó mấy người sư phụ ta cũng tới, đông người náo nhiệt hơn.”
Lý Hư Bạch nói: “Ta quen rồi.”
Thanh Đàn nghĩ tới ý nghĩa đằng sau câu nói này, trong lòng trầm xuống. Chẳng trách hắn không dễ dàng tin người khác giống như nàng, bởi vì hắn cũng giống nàng, từ nhỏ đã mất đi sự bảo vệ của cha mẹ, chắc chắn là đã chịu rất nhiều khổ cực.
Vào cái đêm tìm được Đặng Thọt ở Kinh Thành, hắn đã bất chấp trời tuyết đi đến quán rượu tìm nàng, thái độ đối với nàng khác thường, có thể cũng là vì đồng bệnh tương liên nhỉ.
Ngày quay về Kinh Thành, Tiêu Nguyên Thịnh vốn dĩ nên vào cung gặp vua nhưng vì gặp chuyện bị thương mà kéo dài tới một hôm trước ngày giao thừa mới tiến cung yết kiến thiên tử. Lần triều nghị cuối cùng trước năm mới đã kết thúc. Thiên tử Triệu Trấn giữ hắn và Tể tướng Thái Nguyên ở lại Chính Sự đường.
Tiêu Nguyên Thịnh ba năm gặp vua một lần, phát hiện ra Thiên tử ngày càng gầy gò tiều tụy, duy chỉ có đôi mắt sâu vẫn sắc bén, không giận mà uy, cao thâm khó dò.
Thiên tử hỏi về vết thương trước, sau đó mới nhắc tới tấu chương hắn dâng đến.
“Trẫm đã xem “Bình Nhung Sách” rồi, Hà Gian thích hợp nuôi ngựa, lại có quặng sắt phong phú, đáng tiếc là đã bị Bắc Nhung chiếm cứ nhiều năm. Trẫm cũng từng nghĩ đến việc thu hồi Hà Gian, nhưng vẫn cần bàn bạc kỹ hơn về việc khai chiến với Bắc Nhung.”
Tiêu Nguyên Thịnh bẩm báo: “Triều ta vốn thiết lập chợ trao đổi trà - ngựa ở Hà Châu để Bắc Nhung dùng chiến mã đổi lấy những thứ như dược liệu, lương thực, trà và tơ lụa. Giờ đây Bắc Nhung có trà và tơ lụa mà chúng ta cống nạp, bọn họ không những dẹp sạch chợ trao đổi trà - ngựa mà còn nghiêm cấm đưa ngựa ra khỏi Bắc Nhung, hạ lệnh cứ bắt được người nuôi ngựa để đưa ra ngoài thì giết hết, sung quân xa nhà. Cứ như vậy thì chẳng mấy chốc trong quân sẽ xuất hiện tình cảnh không đủ chiến mã.”
Thiên tử không tự chủ được mà nhíu mày. Chiến mã của quân Bắc Đình không đủ là tai họa ngầm cực lớn.
Tiêu Nguyên Thịnh lại nói: “Bắc Nhung vốn dĩ thông qua chợ trao đổi để mua sắm tơ lụa, bây giờ không những không cần mua mà họ còn bán tơ lụa tiến cống dư lại cho thương nhân triều ta với giá thấp, kiếm tiền ở hai đầu. Giờ đây lại vì tiền muối của triều đình thay đổi liên tục mà thương nhân bán muối oán than khắp nơi. Bắc Nhung nhân cơ hội buôn lậu muối vào nước ta, ảnh hưởng đến quan diêm [*]. Tuy chợ trao đổi có lợi nhuận nhưng tiền sắt tiền đồng chảy vào Bắc Nhung ngày càng tăng lên, cứ thế mãi thì tất thành họa lớn.”
[*] Quan diêm (官盐): Muối ăn, do triều đình khai thác, quản trị và phân phối.
Thái Nguyên nghe đến “tiền muối” thì lặng lẽ quan sát thiên tử. Thiên tử ngày càng nhíu chặt mày.
“Mấy năm nay thần làm Sóc Châu Tiết độ sứ, nhìn thấy Bắc Nhung ngày càng giàu có cường thịnh thì trong lòng rất lo lắng bất an. Truy cứu nguyên nhân thì có chút liên quan đến việc tiến cống của triều ta. Thần cho rằng, tiến cống không phải là kế lâu dài, chỉ có xuất binh thảo phạt Bắc Nhung, thu lại Hà Gian thì mới là thượng sách. Làm một mẻ khỏe cả đời.”
Bạn đang đọc bản chuyển ngữ thuộc về allinvn.net
Thiên tử không tỏ rõ ý kiến mà nhìn Thái Nguyên: “Tướng gia thấy sao?”
Thái Nguyên nói: “Thần cho rằng quốc lực mạnh mẽ thêm chút nữa thì mới có thể xuất binh thảo phạt. Nếu không, một khi thất bại thì hậu quả không thể tưởng tượng nổi.”
Tiêu Nguyên Thịnh nói: “Tướng gia nói rất đúng, có điều mấy năm nay Bắc Nhung dựa vào tiến cống mà đã nuôi được binh hùng tướng mạnh, đã chiếm được Hà Gian lại mưu đồ Lũng Hữu. Chúng ta còn dung túng nữa thì chỉ sợ là nuôi ong tay áo. Cho dù không khai chiến với Bắc Nhung thì nước ta cũng không thể tiếp tục tiến cống nữa.”
Thái Nguyên phản bác: “Ngân lượng của số tiến cống đó trải qua các giao dịch ở chợ trao đổi lại kiếm về được sáu bảy phần. Nếu như đánh trận thì không chỉ tốn hao chút ngân lượng tiến cống đó thôi đâu.”
Tiêu Nguyên Thịnh nói: “Không biết Tướng gia có thượng sách giải quyết chuyện chiến mã không?”
Thái Nguyên không lên tiếng, vẻ mặt hơi xấu hổ.
“Thần không phải muốn khơi mào chiến sự, mưu đồ quân công. Nhưng tiến cống sẽ chỉ gia tăng thực lực của Bắc Nhung, móc rỗng công quỹ của triều ta thôi. Tai họa ngầm là vô tận.”
Hoàng đế vẫn im lặng, trong lòng không ngừng dao động. Tiến cống đổi lấy thái bình không phải là kế lâu dài, rất nhiều họa ngầm nhưng so với khai chiến với Bắc Nhung mà không nắm chắc tất thắng thì ông ta không muốn mạo hiểm. Ông ta chinh chiến khắp nơi, trải qua trăm cay nghìn đắng mới thống nhất được thiên hạ, sự vinh hoa thái bình và bảo tọa vương quyền không dễ có được này, đối với ông ta mà nói là sự quý giá và đầy gian khổ. Cơ thể mang theo bệnh kín đau âm ỉ lúc nào cũng nhắc nhở ông ta là ông ta đã không còn tráng niên khỏe mạnh, ý chí bừng bừng nữa, hiện tại ông ta chỉ muốn sống dễ chịu một chút, lâu một chút.
Tiêu Nguyên Thịnh thấy thái độ Thiên tử dao động không ngừng thì biết điều không nhắc đến chuyện giành lại Hà Gian nữa, ngược lại nói: “Cho dù không khai chiến với Bắc Nhung ngay thì cũng không thể để mặc cho bạc trắng và tiền sắt tiền đồng chảy vào Bắc Nhung được. Theo ngu kiến của thần, chi bằng chúng ta đổi hiện vật tiến cống thành phiếu dẫn.”
“Dân chúng vận chuyển đồ tiến cống đến Bắc Nhung thì phải lặn lội đường xa, khổ không thể tả nếu dùng phiếu dẫn không những dễ vận chuyển, lại không cần lo lắng bị cướp dọc đường. Dân chúng có thể tránh được việc mệt nhọc bằng cách thuê để thương đội vận chuyển hàng đến chợ trao đổi Sóc Châu. Bắc Nhung cầm phiếu dẫn tự đi đến chợ trao đổi giao dịch. Sau khi thương nhân về Kinh lại dùng phiếu dẫn đổi ngân lượng.”
Vẻ mặt Thái Nguyên thay đổi, lộ ra sự hớn hở.
Thiên tử lại thờ ơ, thản nhiên nói: “Tiêu khanh về trước đi. Đợi triều nghị đầu năm, mấy vị Tướng gia và Hộ bộ sẽ cùng nhau bàn lại việc này.”
Tiêu Nguyên Thịnh tạ ơn rời đi, ra khỏi hoàng cung, đúng lúc bắt gặp Quốc sư Huyền Nhất chân nhân vào cung.
Tiêu Nguyên Thịnh lập tức tiến lên chào. Huyền Nhất chân nhân có chút được sủng mà sợ, tuy nói lão được sủng ái trước mặt thiên tử, trong triều không có ai dám bất kính nhưng đại quan tay cầm trọng binh biên giới như Tiêu Nguyên Thịnh vậy mà cũng cung kính, nể mặt lão như vậy.
Huyền Nhất ân cần nói: “Vết thương của Sứ quân không sao chứ?”
Tiêu Nguyên Thịnh cười nói: “Chút vết thương ngoài da thôi, đã sớm không có gì đáng ngại. Nhưng Thánh thượng từ bi, nhất định muốn ta tịnh dưỡng mấy ngày rồi tiến cung sau.”
Huyền Nhất xu nịnh nói: “Sứ quân trẻ tuổi, cơ thể khỏe mạnh sẽ khôi phục nhanh thôi. Vẫn chưa bắt được hung thủ sao?”
“Chưa. Có điều người của Ngự tiền ti vẫn đang ngầm điều tra.”
Sau khi tán gẫu vài câu, Huyền Nhất bước vào cửa cung.
Người hầu bên cạnh Tiêu Nguyên Thịnh, Dung Khâu dắt ngựa đến, hỏi: “Sứ quân về phủ hay là đến lưu để [*]?”
[*] Lưu để (留邸): Nơi ở làm việc của Tiết độ sứ.
Tiêu Nguyên Thịnh suy nghĩ một lúc: “Về phủ đi.”
Ngày mai là giao thừa, chắc ả ta cũng không rảnh rỗi mà đến nhà hắn?
Tiêu Nguyên Thịnh có thị lực hơn người, còn chưa đi đến trước cửa phủ Quốc Công thì đã nhìn thấy ở đầu con phố dài bên kia có một chiếc xe hoa lệ dừng ở cửa, hắn ghìm dây cương lại, dặn dò Dung Khâu đi hỏi xem là ai đến phủ làm khách.
Dung Khâu đánh ngựa đi qua hỏi người gác cổng, quay đầu lại hồi bẩm, là Công chúa Du Trinh.
Tiêu Nguyên Thịnh lập tức quay đầu ngựa, không hề do dự mà quay về lưu để Bắc Đình quân.
Để quan [*] Triệu gia vội vàng vọt ra khỏi phòng ngủ tiếp đón, hỏi: “Sao Sứ quân lại về đây?”
[*] Để quan: người quản lý lưu để.
Tiêu Nguyên Thịnh ngồi trên ghế thái sư [*], tức giận nói: “Trong nhà có khách đến.”
Bạn đang đọc bản chuyển ngữ thuộc về allinvn.net
[*] Ghế thái sư
undefined
Triệu Gia là tâm phúc mà Tiêu Nguyên Thịnh để lại Kinh Thành, trong lòng thầm nghĩ xem người trong Kinh Thành có thể khiến Tiêu Nguyên Thịnh trốn tránh không gặp, nhắc đến thấy phiền là ai, bèn có phỏng đoán: “Chẳng lẽ lại là Công chúa Du Trinh?”
Vị Công chúa Du Trinh này, trước khi xuất giá thì ả nghe nói con trai của Định Quốc Công trẻ tuổi anh dũng, oai hùng tuấn lãng, sau đó nghe nói tên chữ của Tiêu Nguyên Thịnh là Trinh Thiệu thì cảm nhận được đây là duyên phận trời định, ông trời tác hợp nên quấn quýt si mê muốn gả cho Tiêu Nguyên Thịnh. Tiêu Nguyên Thịnh đã sớm có hôn ước với con gái Hình bộ Thị lang Hứa Do, Du Trinh ỷ vào thân phận Công chúa mà ngầm ép nhà gái chủ động hủy hôn, sự việc truyền ra khiến cho khuôn mặt Thánh thượng tối đen, vội vàng định ra phò mã cho ả.
Tiêu Nguyên Thịnh hừ một tiếng: “Ngươi nên bày sạp coi bói ngoài đường đi.”
Triệu Gia nói: “Sứ quân không cần buồn phiền đâu. Hôm nay tại hạ đã thăm dò được một chuyện bí mật, tạm thời vẫn chưa truyền ra.”
“Chuyện gì?”
“Bắc Nhung muốn hòa thân với triều ta, Thánh thượng đã phong con gái của Huệ Vương làm Công chúa, dự định sau khi vào xuân sẽ gả đến Bắc Nhung. Nhưng mà gần đây Bắc Nhung chợt giở quẻ, chỉ tên muốn cưới Du Trinh.”
Mấy ngày nay Tiêu Nguyên Thịnh lấy lý do dưỡng thương mà rất ít khi đi ra ngoài, nghe được tin tức này thì không khỏi có chút bất ngờ.
Dung Khâu cũng suy nghĩ giống hắn, bật thốt ra: “Du Trinh là quả phụ mà.”
Triệu Gia nói: “Người Bắc Nhung đâu có để ý chuyện này? Du Trinh và Thái tử đều do nguyên hậu sinh ra. Thánh thượng nhớ đến tình cảm của nguyên hậu nên sủng ái Du Trinh có thừa. Bắc Nhung nghe nói ả mới góa thì lập tức thay đổi chủ ý, chỉ ngay tên ả.”
Dung Khâu nói: “Thánh thượng nỡ để con gái ruột đi hòa thân à?”
Tiêu Nguyên Thịnh khinh thường nói: “Thánh thượng không muốn khai chiến với Bắc Nhung, ngay cả tiến cống cũng không chịu cắt, chẳng lẽ sẽ vì một Công chúa mà đắc tội Bắc Nhung hả? Theo ta thấy, để Du Trinh đến Bắc Nhung là chuyện ván đã đóng thuyền rồi.”
Dung Khâu vốn không thích Du Trinh, rất oán hận việc nàng ta luôn quấn lấy Tiêu Nguyên Thịnh, cộng thêm việc quấy rối hôn sự của Tiêu Nguyên Thịnh làm cho hai nhà Tiêu Hứa nhà cửa không yên nên khi hắn nghe thấy tin này thì đầu tiên là thở phào nhẹ nhõm, sau đó lại đồng cảm: “Đến Bắc Nhung đúng là quá thảm rồi, nghe nói Bắc Nhung Vương còn lớn tuổi hơn Thánh thượng nữa đó.”
Tiêu Nguyên Thịnh chợt hiểu ra vì sao mấy ngày nay Du Trinh không để ý mặt mũi, lại nhiều lần tới cửa tìm hắn. Hóa ra là Bắc Nhung cầu hôn, nàng ta nóng lòng muốn tìm phu quân.
Triệu Gia lại hỏi: “Thánh thượng có phê chuẩn tấu chương mà Sứ quân dâng lên không?”
Tiêu Nguyên Thịnh giễu cợt: “Có lão thất phu Thái Nguyên kia chủ trương ngược lại thì chuẩn mới lạ.”
Triệu Gia hừ nói: “Mấy năm nay triều đình dựa vào lão ta vơ vét của cải, dân chúng đã sớm mắng đầy đầu lão ta rồi. Chính cái chủ ý ngu ngốc mà lão đưa ra đó, để triều đình phát hành tiền muối cho thương nhân bỏ tiền mua tiền muối, đi đến nơi làm muối dùng tiền muối mua muối. Nhưng thương nhân lấy tiền mua tiền muối, triều đình lại phát hành tiền mới, thương nhân cần phải bù tiền để đổi tiền muối cũ thành tiền muối mới. Thương nhân không dễ gì mới đổi hết tiền muối nhưng chưa được mấy ngày triều đình lại muốn phát hành tiền muối mới, ép thương nhân không ngừng chi tiền đổi cũ lấy mới. Cứ thế mãi, danh dự của triều đình đều bị lão tặc này làm mất sạch.”
Tiêu Nguyên Thịnh nói: “Cho nên lão nhất định sẽ khuyên Thánh thượng đồng ý dùng phiếu dẫn để thay thế tiến cống vật thật. Đến lúc đó thương nhân đến chợ trao đổi cầm trà dẫn, lụa dẫn quay về đổi ngân lượng, lão nhất định sẽ làm giống như muối dẫn, tạo ra trà dẫn, lụa dẫn mới, bóc lột những thương nhân kia, ép họ bù tiền, dùng cũ đổi mới, vơ vét một vòng.”
Triệu Gia nói: “Nếu như Bắc Nhung không chịu chấp nhận phiếu dẫn, nhất định phải lấy tiến cống vật thật thì sao?”
“Bắc Nhung trở mặt chẳng phải là vừa đúng lúc sao? Bệ hạ không muốn khai chiến, muốn tiếp tục đưa tiền đổi lấy thái bình.” Tiêu Nguyên Thịnh thở dài: “Theo ta thấy, chỉ có Bắc Nhung gây sự trước, Thánh thượng mới ứng chiến. Thánh thượng già rồi, không còn như năm đó nữa. Chỉ biết uống đan dược cầu trường sinh bất tử thôi.”
Triệu Gia nói với ý tứ sâu xa: “Sứ quân đừng nôn nóng, Công chúa sống chết không chịu đến Bắc Nhung, đây chẳng phải là cơ hội trời cho à?”