Trọng Sinh Tướng Quân Luôn Xem Mình Là Thế Thân

Chương 149



Bầu trời ban đêm lạnh như nước, Mộ Chi Minh lần thứ mười tám hỏng mất đặt câu hỏi: “Sao ta có thể thành thân với Cố tướng quân chứ?!”

Cả một ngày hôm nay.

Đầu tiên là Cố Hách Viêm khởi tử hồi sinh.

Bây giờ còn nói Cố Hách Viêm thành thân với y.

Chờ tới ngày mai, nếu có người nói với Mộ Chi Minh: “Úi, ngươi và Cố tướng quân sinh một đứa nhỏ.”

Mộ Chi Minh cảm thấy chỉ sợ mình sẽ bằng lòng tin đó!

Văn Hạc Âm cùng Mộ Chi Minh hồi tưởng ký ức đến nửa đêm, nói y dựa vào thơ từ danh dự mãn thành, cự tuyệt gặp tri kỷ giang hồ cùng nhau sống chết uống một chén rượu, hiện giờ nói đến mệt nhọc, đang ngồi ở cạnh bàn ngủ gà ngủ gật, bị một tiếng hét hỏng mất của Mộ Chi Minh dọa tỉnh, Văn Hạc Âm dùng mu bàn tay lau lau khóe miệng: “Thiếu gia, rốt cuộc vì sao ngươi lại không tin?”

Mộ Chi Minh: “Loại lời nói vô căn cứ này ngươi bảo ta tin thế nào?”

Văn Hạc Âm: “Sao lại là lời nói vô căn cứ? Có điều ngay từ đầu Tướng quân thật sự muốn cự hôn.”

Mộ Chi Minh: “Lúc này mới đúng nè.”

Văn Hạc Âm: “Nhưng sau đó Cố tướng quân lại đồng ý rồi.”

Mộ Chi Minh đỡ trán.

Y nghĩ thầm: Làm sao mà Cố tướng quân lại đồng ý chứ, khoan đã, lẽ nào mình yêu mà không được bèn bá vương ngạnh thượng cung*, sử dụng thủ đoạn!

A.

Mộ Chi Minh: “Vì là cưỡng ép thành thân, cho nên Cố tướng quân không đề cập đến chuyện hòa ly sao?”

Văn Hạc Âm: “Không có, Cố tướng quân rất thích ngươi, làm sao đề cập đến chuyện hòa ly chứ.”

Mộ Chi Minh sửng sốt, y nghi hoặc: “Cố tướng quân… rất thích ta?” Y nhớ tới ngày hôm nay gặp Cố Hách Viêm, thấy bộ dạng tức giận lạnh như băng của Cố Hách Viêm bèn có chút ấp a ấp úng, bản thân một chữ cũng không dám tin.

“Đúng vậy.” Văn Hạc Âm nói, “Tình cảm của hai người rất tốt, sinh tử cộng hoạn nạn, suốt ngày không phải hắn cứu ngươi thì chính là ngươi cứu hắn, rất thảm luôn.”

“Hắn cứu ta?” Mộ Chi Minh ngồi xuống bên cạnh Văn Hạc Âm, “Mau, nói chi tiết chút.”

Văn Hạc Âm ngáp một cái, cố gắng không để gục mí mắt xuống, suy nghĩ một chút, nói: “Thiếu gia, ngươi có nhớ rõ lúc ngươi mười lăm tuổi đi núi Cửu Khúc tham dự đại điện săn xuân hiến tế không?”

Mộ Chi Minh gật đầu: “Nhớ rõ.”

Văn Hạc Âm: “Sau đó ngươi rơi vào hồ nước, là Cố tướng quân cứu ngươi lên.”

“Cái gì? Chờ đã, Cố tướng quân?” Mộ Chi Minh kinh ngạc nghi ngờ, “Sao lại thế? Sao lại là Cố tướng quân cứu ta, không phải Túc Vương điện hạ cứu ta sao?”

Văn Hạc Âm: “Chính là Cố tướng quân đó.”

Mộ Chi Minh: “Nhưng… nhưng tấm ngọc bội màu đỏ phượng hoàn niết bàn kia…”

“A, ta biết, đó là di vật của mẹ ruột Cố tướng quân, ngươi đã nói với ta rồi, ngươi nói lúc ngươi được cứu lên, trong lúc vô tình kéo tấm ngọc bội từ trên người Cố tướng quân xuống.” Văn Hạc Âm dần lấy lại tinh thần, bắt đầu nói không ngừng, “Ngươi còn nói cái gì mà ‘lần này’ may mà không lầm, ta cũng không nghe hiểu.”

Mộ Chi Minh lâm vào trầm tư, thật lâu cũng không nói gì.

Văn Hạc Âm lại nói: “Sau khi hai người thành thân, Cố tướng quân đã tặng tấm ngọc bội kia cho ngươi.”

Mộ Chi Minh: “Cái gì, hắn đưa cho ta?”

Văn Hạc Âm gật đầu: “Đúng vậy.”

Mộ Chi Minh: “Ta cất ngọc bội ở đâu?”

Văn Hạc Âm: “Cái này sao ta biết!”

Mộ Chi Minh: “A cái này…”

“Có điều.” Văn Hạc Âm đổi chuyện nói, “Nếu là đồ vật tình trân ý trọng như vậy thì thiếu gia nhất định sẽ không đặt ở nơi tầm thường đâu.”

Nghe vậy, Mộ Chi Minh thu mắt suy tư một lát, bỗng nhiên đứng lên, đi đến trước tủ gỗ tử đàn có khắc hoa đoàn cẩm thốc trong sương phòng, y mở cửa gỗ ra, gõ đông gõ tây, đột nhiên ra sức, thế mà có thể dùng tay không gỡ một tấm ván gỗ!

Văn Hạc Âm hoảng sợ, chạy nhanh thò lại gần xem, thấy Mộ Chi Minh từ trên tường kép ôm ra một cái rương gỗ bí ẩn.

Mộ Chi Minh đặt rương gỗ trên đất, lau mấy mảng bụi trên đó, tay y vuốt ve hoa văn tinh xảo trên rương gỗ, tâm tình khác thường, sau đó hai tay mở rương gỗ ra, y cảm thấy cực kỳ trầm, chỉ là không phải gương gỗ trầm mà là tâm ý y cẩm thận che chở.

Quả nhiên không ngoài sở liệu.

Tấm ngọc bội màu đỏ phượng hoàng niết bàn kia được bọc bằng vải lụa, giấu trong một hộp nhỏ cỡ lòng bàn tay, lẳng lặng nằm trong góc rương gỗ.

Ngoại trừ ngọc bội ra, trong rương còn có một vật khác.

Một thư mời chu thiếp kim phần trống và…

“Đây là?” Mộ Chi Minh bởi vì không tin được mà hai mắt mở to, kinh ngạc lẩm bẩm ra tiếng.

Đây là nỏ thú ngày săn nguyệt.

Mộ Chi Minh biết lai lịch của nó, càng biết nỏ này có ý nghĩa như thế nào đối với Cố Hách Viêm và Cố thị.

Mộ Chi Minh nhìn đồ vật trong rương bỗng nhiên có chút khổ sở.

Bởi y đọc không hiểu được những tình tiên đựng trong rương này.

Mộ Chi Minh thở dài, đóng rương gỗ lại, sau đó đặt rương gỗ trở lại tường kép tủ gỗ, cẩn thận cất đi.

Mộ Chi Minh lập tức hạ quyết tâm rằng khi gặp lại Cố tướng quân, nhất định phải nói chuyện rõ ràng với hắn.

Có điều trước đó, y vẫn còn một chuyện chưa rõ.

“A Âm.” Mộ Chi Minh ngẩng đầu.

Văn Hạc Âm: “A?”

Mộ Chi Minh cười cười: “Mau đi ngủ đi, ngày mai cùng ta đến một nơi.”

Văn Hạc Âm: “Được, đi đâu thế?”

“Phủ Túc Vương.”

***

Hôm sau, phủ Túc Vương.

Gã sai vặt trong phủ Túc Vương dẫn Mộ Chi Minh và Văn Hạc Âm đi đến bên gác mái nhà thủy tạ của phủ đệ, mặt nước lấp lánh, dương liễu lả lướt.

Trước kia Mộ Chi Minh thường tới nơi này giúp Túc Vương Phó Nghệ bày mưu tính kế, cho nên cũng không cảm thấy lạ lẫm, nhưng không biết vì sao mà hôm nay lúc y vào gác mái, bên tai đột nhiên vù vù một tiếng, hoảng hốt chốc lát, sau đó một nỗi bất an và bực bội vô cớ dâng lên trong trái tim.

“Thiếu gia, ngươi làm sao vậy?” Văn Hạc Âm phát hiện y không thích hợp, dò hỏi.

“A…” Mộ Chi Minh phục hồi tinh thần lại, “Ta cũng không biết, không sao đâu.”

Hai người đi đến lầu hai thì Phó Nghệ đã chờ sẵn ở đó, gã dọn bàn trà và chiếc ghế ra khỏi lan can chuyển đến bên trong gác mái, lò bếp xanh hương khói nhẹ mờ mịt, Phó Nghệ gặp người tới, cười nói: “Ly Chu, nghe nói ngươi bị bệnh điên à?”

Mộ Chi Minh ngồi xuống đối diện Phó Nghệ, bất đắc dĩ nói: “Chuyện tốt không ra khỏi cửa, chuyện xấu đã truyền xa ngàn dặm.”

Phó Nghệ cười nhạt châm trà cho y: “Nói đùa thôi, đừng để trong lòng.”

Mộ Chi Minh thấy gã châm trà bèn nói lời cảm ơn, sau đó nói: “Từ ngày ấy sau khi rơi xuống nước, thật sự có rất nhiều chuyện ta không nhớ rõ, thậm chí coi giấc mộng là hiện thực, cho nên chuyện huynh nghe được, cũng không phải tin vịt.”

Phó Nghệ thu liễm ý cười, chân mày hơi chau: “Trách ta, ngày đó không chăm sóc ngươi tốt.”

“Lúc ta uống rượu sẽ phát điên, mấy thớt ngựa cũng không kéo được, làm sao có thể trách huynh.” Mộ Chi Minh bưng chén trà lên, nhẹ nhấp một ngụm, cười nói, “Ô, trà thơm quá.”

“Cho nên hôm nay ngươi đến tìm ta là vì chuyện gì?” Phó Nghệ hỏi.

Mộ Chi Minh buông chén trà xuống: “Có một chuyện hoang mang khó hiểu, đặc biệt tới tìm đáp án.”

Phó Nghệ: “Ồ? Nguyện nghe kỹ càng.”

Mộ Chi Minh nói: “Nghệ ca ca, huynh còn nhớ rõ chuyện lúc đại điện săn xuân hiến tế ở núi Cửu Khúc ta rơi vào hồ nước khe núi không?”

Phó Nghệ thản nhiên gật đầu: “Nhớ rõ, may mà Cố tướng quân đi ngang qua, cứu ngươi lên, nếu không hậu quả thật sự không dám tưởng tượng, làm sao vậy? Vì sao đột nhiên đề cập đến chuyện xưa năm cũ?”

“A… Cái gì…” Mộ Chi Minh kinh ngạc không thôi, y xoa hai bên trán, rũ mắt ấp a ấp úng nói, “Không… không thể nào là ta hồ đồ, nhớ lầm…”

Hai người pha trà tán gẫu nửa ngày, Mộ Chi Minh đứng dậy cáo từ, cùng Văn Hạc Âm rời đi.

Phó Nghệ đưa y đến gác mái trước nhà thủy tạ, gọi gã sai vặt dẫn bọn họ ra phủ, sau khi nhìn người đi xa mới gọi ám hầu tới: “Hiện giờ chỉ cần một người theo dõi ở Mộ phủ là được, tất cả ám hầu còn lại rút về đây đi.”

***

Mộ Chi Minh khỏi khỏi gác mái với Văn Hạc Âm, xuyên qua hành lang gấp khúc trồng một hàng chuối tây, nhìn thấy một nữ tử áo gấm từ xa xa đối diện chạy tới, phía sau nàng ta là hai tên thị vệ hắc y.

Thân hình nàng ta nhỏ xinh, nhìn qua rất hướng nội e lệ, sau khi thấy Mộ Chi Minh càng hoảng sợ hành lễ, giọng nói như muỗi kêu: “Tham, tham kiến Hầu gia.”

Mộ Chi Minh kinh ngạc trong lòng.

Người này không phải là con gái của Thống lĩnh cấm quân Tương Như Sơn sao? Vì sao nàng ta lại xuất hiện ở phủ Túc Vương?

Trên mặt y không lộ thanh sắc, chấp tay thi lễ đáp lại.

Tương thị liếc mắt nhìn thị vệ phía sau, có vẻ nôn nóng bất an không thể giải thích được, lễ nghĩa xong cũng không nói câu nào, vòng qua Mộ Chi Minh cúi đầu đi luôn.

Khuôn mặt Mộ Chi Minh lộ vẻ nghi hoặc, nhìn nàng ta rời đi.

Văn Hạc Âm nói: “Thiếu gia, có phải ngươi lại không nhớ phải không? Người vừa rồi là Túc Vương phi.”

“Cái gì? Túc Vương phi?” Mộ Chi Minh đứng ngốc tại chỗ.

“Đúng vậy.” Văn Hạc Âm nói, “Một năm trước Túc Vương điện hạ đã thành thân.”

Mộ Chi Minh: “Một năm trước? Nhưng… nhưng… cái đó, chuyện hắn thổ lộ với ta…”

Văn Hạc Âm: “A? Thổ lộ cái gì?”

Mộ Chi Minh an tĩnh lại, y đưa mắt nhìn quanh bốn phía, thấy lá chuối tây xanh tươi ướt át, chim Thương canh xập xình, cỏ hoa xanh tươi ở phủ Túc Vương đối với y mà nói, vừa quen thuộc lại vừa xa lạ như vậy, dường như hai ngày này, mỗi một câu mình nghe được, mỗi một sự kiện đều giống như nhau.

Sau khi cảm xúc kinh ngạc khi nghe được Phó Nghệ thành thân mất đi, Mộ Chi Minh cảm thấy chỉ có nhẹ nhàng.

Y từng vì tình nghĩa mà mua dây buộc mình, nhưng nay lại vô câu vô thúc.

“Thiếu gia.” Thấy y đột nhiên không nói tiếng nào, Văn Hạc Âm hoang mang, “Ngươi nhìn cái gì vậy?”

Mộ Chi Minh hít sâu một hơi, chậm rãi thở ra, sau đó cười với Văn Hạc Âm: “A Âm, vạn dặm không mây, gió mát ấm áp thật dễ chịu.”

Văn Hạc Âm gật đầu: “Ừm, đúng vậy.”

“Đi thôi, chúng ta đi chợ phố đông mua pho mát anh đào ăn.” Ý cười của Mộ Chi Minh dạt dào, bước hai chân ra đi nhanh về phía trước.

Văn Hạc Âm đuổi kịp y: “Được đó.”

Mộ Chi Minh lẩm bẩm tự nói: “Không biết hôm nay Cố tướng quân có về phủ không? Nếu có về thì phải mang một hộp pho mát anh đào về cho hắn nếm thử.”

***

Mộ Chi Minh và Văn Hạc Âm đi dạo ở phố xá náo nhiệt hết nửa ngày, ăn pho mát anh đào rồi xem ảo thuật xiếc ở đầu đường mãi tới tận chạng vạng mới về phủ.

Hai người vừa đến Mộ phủ, đã có gã sai vặt đi tới nói với Mộ Chi Minh: “Thiếu gia, thiếu Doãn phủ Kinh Triệu Bùi đại nhân tới bái phỏng, hiện đang đợi ở chính sảnh.”

“Hả? Thiếu Doãn phủ Kinh Triệu?” Mộ Chi Minh nghi hoặc.

Y không nhớ mình và thiếu Doãn phủ Kinh Triệu có giao tình mà.

Mộ Chi Minh vừa định dò hỏi, Văn Hạc Âm gào ra tiếng: “Hắn tới làm cái gì?”

Mộ Chi Minh kinh ngạc với Văn Hạc Âm lỗi thời kích động, vừa quay đầu đã phát hiện thần sắc cậu có chút dị thường, không khỏi tò mò hỏi: “Người này là ai? Có quen biết gì với ta?”

“Hắn…” Văn Hạc Âm ấp úng, “Hắn là bằng hữu của Cố tướng quân…”

“Bằng hữu của Tướng quân?” Mộ Chi Minh vừa đi vừa nói, “Vậy thì không thể để hắn đợi lâu, đi thôi chúng ta đến chỉnh sảnh.”

Văn Hạc Âm không tình nguyện mà đi theo phía sau Mộ Chi Minh.

***

Hai người đến chính sảnh, Mộ Chi Minh đã nhìn thấy một nam tử mặc võ bào màu đỏ của phủ Kinh Triệu ngồi trên ghế.

Nghe nói tiếng bước chân, Bùi Hàn Đường đứng lên quay đầu nhìn lại đây, trước tiên hành lễ với Mộ Chi Minh: “Tham kiến Hầu gia.”

Sau khi hành lễ xong, Bùi Hàn Đường lập tức đi tới bên cạnh Văn Hạc Âm, cử chỉ thân mật mà ôm lấy bả vai Văn Hạc Âm, nhe răng cười nói: “Vật nhỏ, lâu rồi không gặp đó.”

Văn Hạc Âm ném ra tay hắn ta ra, thẹn quá hóa giận: “Ngươi, ngươi, ngươi quy củ chút đi.”

Bùi Hàn Đường vô tội buông tay: “Ta không quy củ chỗ nào?”

Mộ Chi Minh nhìn một cái Văn Hạc Âm, lại nhìn một cái Bùi Hàn Đường, bừng tỉnh đại ngộ.

“A…”

(*“Bá vương ngạnh thượng cung” là thành ngữ xuất phát từ điển cố về một trận giao tranh giữa Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ và Hán Cao Tổ Lưu Bang. Chuyện kể rằng lần nọ Hán Sở tranh hùng, giằng co quyết liệt suốt mấy tháng mà thắng bại vẫn bất phân. Trận chiến này khiến già trẻ lớn bé đều mỏi mệt khổ đau, tiếng oán thán ngập trời ngập đất. Hạng Vũ thấy thế bèn nói thẳng với Lưu Bang rằng: “Thiên hạ náo loạn đã nhiều năm, cũng vì hai người chúng ta. Bản vương muốn đơn thân độc mã khiêu chiến với Hán vương, hai ta sống mái một phen, đừng để con dân thiên hạ phải tiếp tục chịu khổ.” Lưu Bang cười đáp: “Ta thích đấu trí chứ không đấu sức.” Hạng Vũ bèn lệnh cho một tráng sĩ xuất chiến, chẳng ngờ ngay lập tức gã tráng sĩ nọ bị thủ hạ của Lưu Bang (vốn là thiện xạ kỵ binh) bắn chết. Sở Bá Vương thập phần tức giận, tự mình khoác khôi giáp cầm vũ khí tiến lên ứng chiến. Chì cần Hạng Vũ trừng mắt một cái, tên thiện xạ kỵ binh kia đã run như cầy sấy, buông cung tếch thẳng về thành…

Nghĩa rộng của cụm từ “Bá vương ngạnh thượng cung” rất đơn giản, “bá vương” chỉ những người siêu mạnh mẽ, “ngạnh thượng cung” tạm hiểu là “xuất ra uy lực còn mạnh hơn cung nỏ” ; mà “cường cung” thì hiển nhiên sẽ bắn ra “cường tiễn”. Từ “cường tiễn” [đọc là “qiang jian”] hài âm hoàn toàn với “cưỡng gian” [aka “rape”] ; mà “cưỡng gian” thời xưa là một từ đại kỵ húy, nên cổ nhân vốn tao nhã vô biên lịch lãm vô vàn, đã dùng năm từ “bá vương ngạnh thượng cung” đặng thay thế cho hai từ “cưỡng gian”