Sí Thư không cam lòng thất bại, trên đường lùi về phương Bắc, bắt được liên lạc với Tả Xương Vương đã quay lại lãnh địa từ trước, lấy kế hoạch vực dậy mai sau cùng trị làm điều kiện điều tạm binh mã, thừa lúc quân Ngụy không sẵn sàng, giết ngược trở về*.
(*) sát hồi mã thương: quay đầu lại bất ngờ đâm ngọn thương vào kẻ địch
Mục tiêu của gã không phải đoạt lại Nam Đô, cũng không phải U Yến. Vị Hoàng đế Bắc Địch này dù từng nổi cơn tam bành vì thua trận, song cuồng nộ qua đi, đầu gã cũng không hề hoàn toàn bị ngọn lửa tức giận làm cho mê man. Hiện giờ binh lực quân Ngụy mạnh hơn, cộng thêm vừa thắng trận đại chiến, nhuệ khí đang không thể đỡ, còn mình binh bại như núi đổ, dù có điều tạm binh mã thì trong ngắn hạn muốn tranh đoạt lại vùng đất U Yến không khác gì kẻ si nói mộng, mà nếu như U Yến không nằm trong tay thì dẫu có đoạt lại Nam Đô thì cũng không phải vùng đất vững chắc lâu dài, không có bất kỳ ý nghĩa thực tế nào.
Ở phía Bắc Nam Đô cách mấy trăm dặm có một đầm nước lớn vắt ngang từ Đông sang Tây, vào mấy thập niên trước khi Bắc Địch chưa xuôi Nam đóng đô, mấy trăm năm qua, nơi đây luôn được coi là chỗ Giới hà (sông giáp ranh) giữa người Địch và hoàng triều Trung Nguyên, song phương luôn đứt quãng tranh đoạt quanh vùng ranh giới, từ rất lâu Hoàng triều Trung Nguyên đã xây dựng cứ điểm dọc theo hai bên bờ Giới Hà, về sau dần dần hình thành rất nhiều quân trấn, trong đó hai quân trấn Chấn Minh, Tây Nhu có quy mô lớn nhất, vị trí cũng mấu chốt nhất.
Mục tiêu của Sí Thư là muốn giữ vững Giới hà, việc này còn liên quan đến tôn nghiêm sau cùng của gã — U Yến Nam Đô vốn không thuộc cả về người Địch, mất thì mất rồi, nhưng vùng đất phía Bắc Giới hà lại là chỗ tổ tiên người Địch yên nghỉ, nếu ngay cả một tấc vuông cuối cùng này cũng không giữ được thì dù gã có quay trở lại Bắc Đình, cũng e là không còn cách nào phục chúng. Mà tình cảnh hiện giờ của Tả Xương Vương so với gã cũng chả tốt là bao. Nói trước đây là vì một ý nghĩ sai lầm của lão trực tiếp dẫn đến tổn thất U Yến là chưa đủ. Người Địch trọng kẻ vũ dũng, xem thường hèn yếu, mấy mươi năm qua, dù rằng quý tộc và quân đội Nam Đô vì hưởng lạc mà có chỗ buông thả, song tục lệ vẫn thế. Sau khi trốn về lãnh địa, lão liền bị đám quý tộc còn lại âm thầm chế nhạo, danh dự tổn hao rất nhiều, giờ nhận tin từ Sí Thư, sau khi cân nhắc, để cứu lấy danh dự, cũng là vì suy tính đến tương lai, bèn đồng ý cho mượn binh.
Cứ thế, sau khi vượt qua Giới hà chạy tiếp vài trăm dặm, Sí Thư một lần nữa tổ chức binh mã, quay lại tập kích, giết ngược.
Tin gửi đến quân Nhạn Môn đến từ Nam Đô.
Sau khi đánh hạ Nam Đô, Khương Hàm Nguyên càn quét biên cảnh, đánh thẳng đến gần vùng Giới hà, biết giặc cùng đường chớ đuổi mới dừng truy kích. Thời gian va chạm với Sí Thư không ít, đối với tính cách kẻ địch cũng có chỗ hiểu biết, biết gã phàm là có nửa điểm khả năng cũng sẽ không dễ nhận thua, bèn cẩn thận đề phòng, cô đích thân ở lại Giới hà tiếp tục phòng thủ, quan sát động tĩnh, lúc nhận được tin khẩn cấp thám tử đưa đến, cô đang dẫn một đội binh mã trú tại Tây Nhu Tắc phía Bắc Giới hà, phái người phát ra cấp báo, lệnh lập tức điều quân đến giúp, rồi lệnh Chu Khánh đề phòng ở Chấn Minh Tắc, một cứ điểm quan trọng khác ở phía Nam Giới hà, đồng thời gửi thư về Nhạn Môn, lệnh cho Phàn Kính chuẩn bị sẵn sàng, chờ lệnh mọi lúc, phòng vạn nhất.
Phàn Kính mới từ Tây Quan trở về không lâu, ngày ngày bề bộn nhiều việc quân, hôm nay cũng không ngoại lệ, nhận được tin chiến sự lại lên ở Lệnh sở, đang hạ lệnh triệu đủ sĩ quan cấp cao truyền đạt lệnh cấp trên, thì binh sĩ giữ cửa vào thông báo rằng có người tìm ông, bước ra, nhìn thấy một người mặc thường phục đội nón lá đứng bên ngoài, dáng vẻ nom quen quen, đợi đến gần nhận ra, kinh ngạc không thôi: “Điện hạ?”
Ông vội sải bước ra đón.
Cùng ngày, Thúc Thận Huy cầm lộ bài thông hành Nhạn Môn phát ra tiếp tục tiến ra phương Bắc.
Lúc xảy ra trận chiến tám Bộ, Khương Hàm Nguyên dẫn đội khinh kỵ chạy đường vòng quanh co, còn phải ngày nằm đêm đi, cần tầm mười ngày mới đến được U Châu. Hiện giờ vùng đất U Yến đã hoàn toàn thuộc về Đại Ngụy, từ Nhạn Môn đến Nam Đô có thể đi thẳng, ngựa y không dừng vó đi cả ngày lẫn đêm, chưa tới ba bốn ngày đã tới quận Yến, không hề ngừng nghỉ, đổi ngựa đi tiếp đến Nam Đô, nhanh chóng đến Chấn Minh Tắc nằm ở hạ lưu bờ Nam.
Y muốn tiếp tục đi Tây Nhu Tắc.
Hôm y đến nơi, dọc theo đoạn Giới hà này, chiến sự đã đánh. Chấn Minh Tắc là cứ điểm quan trọng vùng hạ du, cuộc chiến tranh đoạt càng thêm khí thế hừng hực.
Mấy hôm trước, một đội kỵ binh người Địch tầm mấy vạn khí thế hung hăng giết tới, lội qua đoạn ranh giới sông nước sâu đến bụng ngựa, tấn công mãnh liệt vào Chấn Minh Tắc.
Đội kỵ binh người Địch này có chủ lực đến từ dưới trướng Tả Xương Vương. Khác với đội quân bị đánh bại nhiều lần mà có chỗ e sợ trước đây, bọn hắn chưa từng nghênh chiến đã lui hết về phương Bắc, vẫn cảm thấy không phục, hiện giờ có cơ hội, từng tên đỏ mắt, ước gì không thể một hơi giết về quận Yến rửa sạch nhục nhã, để tiện bề trước mặt khoe quân công. Chu Khánh biết Địch kỵ xâm phạm khó đối phó, không dám xem thường, trước đó đã chia ra dựng công sự ở ba mặt Bắc Tây Đông của Chấn Minh Tắc, đồng thời bố trí binh lực ứng chiến. Ông phán đoán binh Địch sẽ theo trọng điểm tiến công hướng Bắc, đích thân đóng giữ, để thủ hạ là tướng tài đắc lực chia ra đề phòng hai mặt. Bố trí ấy vốn không có chỗ sơ suất, mấy ngày liên tiếp, thủ giữ Chấn Minh Tắc kín kẽ không một khe hở, quân Địch đến đám nào, ăn đám ấy.
Nào ngờ ba hôm trước, thời tiết chợt thay đổi, mưa như trút nước, nước sông chảy xiết, mực nước tăng vọt tràn bờ, phá hủy công sự bờ Tây Chấn Minh tắc. Đến khi Chu Khánh nhận được tin biết không ổn thì đã trễ, toàn bộ chủ lực còn thừa lại của quân Địch dồn về phía bờ Tây Tắc, phát động tấn công mạnh mẽ, Chu Khánh lãnh binh đến tiếp ứng. Bình thường nửa ngày đã đến, song hiện giờ đường đầy bùn lầy, đất lồi lõm tích đầy nước mưa, vó ngựa và hai chân binh sĩ lún sâu trong bùn, bước tiến gặp trở ngại cực lớn, chí ít một ngày mới đến.
Quân trú đóng Tây Tắc ứng đối bỗng gặp một đội quân Địch gấp bội phe mình, viên phó tướng biết trách nhiệm trọng đại — nếu quân Địch đánh ra lỗ hổng từ chỗ mình mà xâm nhập, từ phía sau bọc đánh, thì toàn bộ quân trấn Chấn Minh đều lâm vào nguy hiểm — trên người hắn dù bị thương nhiều chỗ cũng không dám nhượng bộ nửa bước, dẫn binh sĩ anh dũng thủ Tắc. Đương lúc chém giết, ngựa bị tên lạc bắn ngã, không kịp xoay xở, ngã ngựa, lại họa vô đơn chí, một chân bị vó ngựa đạp trúng gãy ngay tại chỗ, trong chốc lát không thể đứng dậy, một quân lính và sĩ quan người Địch đang vây công hắn bắt lấy cơ hội, một trước một sau, hung tợn đánh tới. Hắn té ngửa ra đất, chịu đựng cơn đau kịch liệt, chém ngã tên binh Địch trước người, cùng lúc đó, một thanh đao khác cũng đã từ sau rơi xuống đầu, hắn hết lực tránh. Bên cạnh, binh lính của hắn cũng đang bận chém giết phần mình, tình thế gian nan, chủ tướng rơi vào hiểm cảnh cũng không cách nào thoát thân cứu giúp.
Lúc hắn sắp bỏ mạng dưới đao, một thớt chiến mã như chớp như ảnh, từ góc nghiêng bên cạnh xông tới, người lập tức một kiếm gọt đến, kiếm khí lướt gió, bàn tay bao gồm cả cổ tay cầm đao của người trên đỉnh đầu bị chặt đứt, rớt xuống đất.
Cùng với tiếng kêu thảm thiết của viên sĩ quan người Địch và mưa máu xối xả đầu đầy, viên phó tướng trở về từ cõi chết, mờ mịt ngẩng đầu, một khuôn mặt thanh niên anh tuấn cúi người, chụp lấy mình. Hắn được kéo lên lưng ngựa, người kia lại giết ra trận địa, buông hắn ra.
Viên phó tướng không nhận ra người tới, nhưng đã cứu mình chắc chắn là bạn không phải địch, hoàn hồn ngẩng nhìn trận chiến mình phụ trách phía trước, lo rằng mình không ở đấy lòng quân bất ổn, không màng tới cái chân bị gãy, vùng vẫy định đứng dậy quay lại, lại bị người này cản trở, nghe y nói một câu, không khỏi sáng mắt, vui đến phát cuồng, thu hết hơi, hướng phía trước la lớn: “Các tướng sĩ nghe đây! Hắn là do Chu Tướng quân phái tới đưa tin! Tướng quân đang nhanh chóng lãnh binh đến! Giết cả cho ta, đứng vững —” hô xong, người thả lỏng, không gượng được nữa, hôn mê bất tỉnh.
Tướng sĩ lấy ít địch nhiều, lọt vào vòng vây điên cuồng vốn đang dần hết chống đỡ nổi, đột nhiên nghe tin, lại thấy thanh niên mới cứu chủ tướng đã phóng ngựa giết ngược trên trận địa, đón đầu quân Địch, được cổ vũ, tinh thần cực kỳ hưng phấn, cắn răng đỏ mắt ra sức chém giết theo.
Đương khi Chu Khánh lãnh binh rốt cuộc đuổi tới, cục diện đã đảo ngược, đường lui của binh Địch bị cơn hồng thủy cắt đứt, vô số kẻ nhảy xuống đầm, chết đuối. Chiến sự kết thúc, ông nghe có người tự xưng là do mình phái tới, chẳng những cứu được viên phó tướng thủ hạ đắc lực của ông, về sau còn bắn chết chủ tướng quân Địch, ổn định cục diện, đang chờ mình, mà hình như trong ngàn quân chẳng ai nhận ra, bèn không khỏi hiếu kì cho người dẫn đi gặp. Đến nơi, thấy người kia cả người nhuốm máu, đứng bên bờ ranh sông hồng thủy đang tràn, ngắm mây đen trên kia bày ra trận hồng thủy mà nhíu mày, vẻ mặt nom như đang thầm lo lắng.
“Ngươi là ai? Công lao lần này không nhỏ! Xưng tên đi, bổn tướng quân thay ngươi đến thỉnh công trước mặt tướng quân Trường Ninh— ” Chu Khánh cười ha hả, sải bước tới người kia, chợt khựng lại, trợn to mắt.
“Điện hạ!”
“Mạt tướng không biết là Nhiếp Chính Vương điện hạ đến! Điện hạ thứ tội!” Ông cuống quýt đổi giọng, bước lên thi lễ chào hỏi.
Thúc Thận Huy xoay người, bước tới lệnh cho Chu Khánh đứng dậy: “Nay ta đã không còn là Nhiếp Chính Vương, không cần đa lễ.”
Binh sĩ xung quanh vừa mới thấy y khí độ không tầm thường, vẫn đang tò mò dò xét, nhìn thấy cảnh này đều kinh ngạc ngớ người.
Nhiếp Chính Vương chính là phu quân của tướng quân Trường Ninh, trong quân không ai không biết, đợi tỉnh táo lại vội vàng quỳ cả theo.
Thúc Thận Huy lệnh mọi người đứng dậy cả.
Chu Khánh mừng rỡ không thôi: “Sao điện hạ lại đến đây?”
Thúc Thận Huy hỏi thăm Khương Hàm Nguyên, Chu Khánh vội nói: “Mấy hôm trước Tướng quân vẫn ở Tây Nhu Tắc, Sí Thư dẫn binh đánh lén, nhưng vấn đề không lớn, viện quân phát ra hẳn giờ này đã kịp đuổi tới, xin điện hạ yên tâm —”.
Đột nhiên, ông ngừng bặt, đưa mắt nhìn mực nước đầm bên cạnh đang dâng cao mấy ngày nay, biến sắc.
Tây Nhu Tắc ở vùng thượng du bờ bên kia, cách Chấn Minh Tắc mấy trăm dặm, bình thường phát binh qua, bốn năm ngày là đến, nhưng lần này gặp lũ thượng du, hai bên bờ gần như không có chỗ đặt chân, con đường đội quân vừa xuất phát nhiều ngày trước bị chặn, rốt cuộc chỉ đuổi tới chỗ vốn là bến đò; phát hiện cầu nổi đã bị lũ đánh gãy, bị ngăn lại ở bờ Nam, không cách nào qua sông.
Đương khi Thúc Thận Huy đuổi tới bến đò, nhìn nước sông vẩn đục mang theo cây cối và xác động vật từ thượng du lao xuống, tuôn chảy không dứt, sắc mặt cực kỳ khó coi.
Phụ trách dẫn đầu cánh viện quân chạy tới Tây Nhu Tắc là Trương Mật.
Mấy ngày qua, vì để qua sông, ông đã thử mọi cách có thể nghĩ ra, song đều phí công. Ông nhìn Thúc Thận Huy đứng nghiêm bất động bên bờ, quỳ xuống thỉnh tội: “Mạt tướng vô năng! Mạt tướng đã nhiều lần thử lệnh cho tướng sĩ nối đuôi nhau xuống nước, nhưng căn bản chân đứng không vững, lòng sông cực sâu, nước lại xiết, nếu không phải đoán trước buộc thừng trên người, người cũng muốn bị cuốn đi —”.
Thúc Thận Huy nhìn bờ bên kia, đứng yên, bóng lưng không nhúc nhích.
Chân trời nơi xa xa âm u, quân trấn Tây Nhu Tắc ở cách bờ Bắc mấy chục dặm, từ đây không thể nhìn thấy, nhưng ở đó tổng cộng chỉ có không đến hai ngàn binh mã, mà Sí Thư lại là có chuẩn bị mà đến, tập kích quân trấn, tình huống bên ấy hiện giờ thế nào là có thể nghĩ, bị kẹt là tất nhiên, thậm chí, khả năng xấu nhất…
Trương Mật không dám tưởng tượng, nghiến răng, bỗng đứng bật dậy, quay đầu lớn tiếng gọi binh cảm tử, đang định lệnh người kết thành bức tường lần nữa xuống nước, chợt thấy Thúc Thận Huy sai người nhấc một khúc gỗ tròn vốn định dùng để dựng cầu nổi, lệnh đẩy xuống nước. Ban đầu Trương Mật không rõ cho lắm, mà không dám hỏi nhiều, chỉ bảo binh sĩ làm theo. Lúc thả khúc gỗ xuống nước, ngay lập tức đã bị dòng lũ ập tới lăn lộn không ngừng, sóng cuộn trào mãnh liệt, chìm nổi, xoay chuyển mòng mòng.
“Điện hạ?” Ông vẫn chưa hiểu ra dụng ý. Muốn dựa vào khúc gỗ nổi để qua sông vốn là chuyện không thể nào. Vừa hỏi, Thúc Thận Huy đã thả người nhảy xuống nước, bám vào khúc gỗ nổi, ngay lập tức, người theo khúc gỗ bị đánh ngược trở lại trên mặt nước, trôi vào lòng sông.
“Điện hạ!”
Trương Mật và bọn Chu Khanh vừa tới cuối cùng đã hiểu ý đồ của y.
Mặt sông sóng lớn mãnh liệt, nhưng ở đáy nước, hẳn dòng nước sẽ tương đối nhẹ nhàng. Y đang muốn dựa vào sức mình, lặn xuống nước qua sông.
Thật là một hành động nguy hiểm biết chừng nào, nước sông vẩn đục như bùn, dưới nước không thể thấy gì, chưa nói còn có mạch nước ngầm và xoáy nước, chỉ không cẩn thận một tí e sẽ có bất trắc.
Đám người nhìn thấy y vừa xuống nước, lập tức theo khúc gỗ bị sóng ập tới đánh chìm, trong tích tắc không nổi lên, không khỏi hoảng sợ, cao giọng la to, một lát sau, nổi lại lên mặt nước, đã ngoài mấy trượng.
“Điện hạ! Điện hạ!”
Trương Mật Chu Khánh dọc theo bờ sông đuổi theo một đoạn, chỉ thấy khúc gỗ trong mặt nước rộng lớn chìm nổi bao nhiêu bận, y cũng chìm nổi từng ấy bận theo.
Lần cuối cùng, khúc gỗ nổi lên lần nữa nhưng không thấy y.
“Điện hạ —— “
Trương Mật Chu Khánh sợ đến hồn phi phách tán, quỳ gối xuống đất, trợn to mắt nhìn đầm nước đục phía trước, nhưng chỉ thấy mênh mông, nào còn có thể tìm được bóng dáng của y?
…
Sau khi Khương Hàm Nguyên phái người đưa tin, bèn đụng phải đại đội binh mã của Sí Thư tập kích đến. Cô dẫn theo hai ngàn binh sĩ lui về trấn ở một tòa Tắc lũy hoang phế từ lâu, chia lớp phòng thủ cổng vào.
Theo cô tính toán, chỉ cần phòng thủ bốn năm ngày, đội quân sẽ có thể đến. Nhưng nào ngờ mãi không thấy. Cô đoán mưa to mấy ngày liên tiếp gây lũ, cản lối giao thông. Hiện tại, cô và tướng sĩ thủ hạ đã bị nhốt ở đây bảy ngày bảy đêm, cũng đã huyết chiến bảy ngày bảy đêm. Mới chạng vạng tối nay, sau nửa ngày gian nan huyết chiến, cuối cùng đã một lần nữa đánh lui tiến công bên ngoài, mấy lối vào đều chất đầy xác binh Địch bị giết.
Không khí trong Tắc lũy đầy mùi hôi thối của xác rữa hòa cùng máu tanh, nghe đủ muốn nôn mửa. Nhưng với Khương Hàm Nguyên và tướng sĩ đã chiến đấu nhiều ngày thì sớm đã không còn cảm giác. Vấn đề lớn nhất họ sắp gặp phải, không phari là trận huyết chiến tiếp đến, mà nước bẩn có thể uống được sắp không còn, lương khô có thể no bụng, cũng tiêu hao hầu hết. Bị nhốt thêm đôi ngày nữa, không cần bên ngoài đánh vào, nơi này đã hoàn toàn mất đi sức chiến đấu.
Ngoài Tắc lũy, mùi thịt thơm binh Địch nướng thoảng bay vào. Các binh sĩ không một ai nói chuyện, có người im lặng lung tung xử lý vết thương trên người, có kẻ ngồi dựa một góc tường khuất nhắm mắt gà gật, còn có người thấp giọng nhai miếng lương khô cuối cùng mình còn sót lại, lầm bầm nguyền rủa kẻ địch bên ngoài.
Khương Hàm Nguyên bỗng đứng lên, hỏi binh lính chung quanh: “Vì sao mọi người lại đầu quân?”
Các binh sĩ ngẩn ra nhìn cô, mới đầu nhìn lẫn nhau, chẳng ai mở miệng. Khương Hàm Nguyên chỉ Trương Tuấn ngồi một mình trên đất gần đó: “Cậu nói trước đi.”
Trương Tuấn ngập ngừng, “Người nhà tôi chết sạch, để có bữa cơm ăn mới dấn thân vào quân ngũ.”
Khương Hàm Nguyên gật đầu, hỏi một sĩ binh cạnh cậu: “Còn cậu?”
Binh sĩ kia cười hắc hắc: “Tôi muốn dành ít tiền, mai này về nhà có thể cưới cô vợ trẻ mập.”
Xung quanh đều cười nhạo ra tiếng, binh sĩ sờ đầu không phục: “Bọn mi cười cái gì? Ai trong bọn mi dám nói không nghĩ tới đi?”
Tiếng cười càng lớn, bầu không khí đang ngột ngạt cũng trở nên thư thái hơn. Ngay sau đó, binh sĩ bắt đầu cướp lời nói. Người thì muốn kiến công lập nghiệp, kẻ muốn rạng rỡ tổ tông, dễ bề khoe trước mặt hàng xóm. Lao nhao, gì cũng nói.
Khương Hàm Nguyên gật đầu cười nói: “Cho dù mục đích đầu quân của các ngươi là gì, mỗi người các ngươi đều là hảo nhi lang, chiến sự sắp kết thúc, các ngươi sắp có thể về nhà, cưới vợ sinh con dưỡng cái, xây nhà làm ruộng, triển vọng biết chừng nào nhỉ!”
Giọng cô vừa buông, các binh sĩ đều ngẩn người mê mẩn. Nhưng ngay sau đó, nhớ đến hiện trạng, bầu không khí lại chùng xuống, không ai lên tiếng.
Khương Hàm Nguyên đổi chủ đề: “Đêm nay, có một cơ hội có thể phá vây, dù khó song còn tốt hơn là bị vây chết ở chỗ này. Giờ các ngươi tranh thủ ăn chút gì, nghỉ ngơi đi, dưỡng tốt tinh thần, đến chừng đó nghe lệnh, chuẩn bị phá vây!”
Nỗi sợ của đám binh sĩ là vô vọng, cuối cùng chết khốn ở đây. Chỉ cần có hy vọng phá vây, khổ sở chẳng ai e ngại. Huống hồ, trước mặt họ là viên nữ tướng cực kỳ tín nhiệm. Ngài đã nói vậy thì nhất định sẽ có cơ hội.
Trong ánh lửa ảm đạm, từng một gương mặt, trong thoáng chốc hưng phấn lên, quét đi mệt mỏi và chán chường trước đó.
Khương Hàm Nguyên nhìn quanh một vòng, cuối cùng ra hiệu Dương Hổ Thôi Lâu theo mình đến một góc tối không người.
“Vừa rồi Tướng quân có ý gì? Cơ hội phá vây ở đâu?” Dương Hổ không chờ kịp hỏi.
Khương Hàm Nguyên nói: “Ngày mai sẽ hết lương thực, hết nước uống, tên cũng sắp hết rồi, e rằng trong phút chốc viện quân không thể đến kịp. Sí Thư hận ta tận xương, đêm nay hai cậu tổ chức binh sĩ, dùng tiễn trận mở đường cho ta, ta sẽ đoạt ngựa trùng sát ra ngoài, chắc chắn Sí Thư sẽ phái trọng binh đuổi theo ta, đến chừng đó hai cậu dẫn quân thừa cơ phá vây. Lúc trước có thăm dò địa hình, ở hướng Tây Bắc có một vùng đầm cỏ lau, các cậu dẫn người đến đó. Mấy hôm nay mưa đã ngớt, chỉ cần kiên trì thêm dăm ba ngày, đợi nước lũ hơi ổn định, viện quân chắc chắn sẽ đến.”
Sắc mặt cô bình tĩnh, nhả lời không nhanh không chậm, vẻ đã nghĩ sâu tính kỹ.
Lời còn chưa dứt, Dương Hổ Thôi Lâu đã giãy nãy: “Tuyệt đối không thể!”
Ý cô sao cả hai không rõ chứ? Sao đồng ý được?
Khương Hàm Nguyên nhìn Dương Hổ Thôi Lâu: “Nếu biện pháp này của ta là không được, vậy thì các cậu có biện pháp tốt hơn chăng?”
Hai người lặng thinh.
Tình hình nơi này thế nào bọn hắn quá rõ. Biết rằng nếu dùng cách của nữ tướng quân, có lẽ còn có thể dẫn người giết mở một đường máu, bằng không thì…
“Kéo dài nữa, toàn bộ sẽ chết.” Cô lạnh lùng nói.
“Vận may không thể lúc nào cũng ở bên ta được. Lúc này chính là lúc trời muốn tuyệt đường ta, ta không thể nhận mệnh được! Tâm nguyện các binh sĩ các cậu cũng nghe cả rồi đấy. Họ tin tưởng vào cha ta, tin tưởng ta, tình nguyện đi theo cha con họ Khương huyết chiến đến cùng, hiện giờ sắp có thể thực hiện tâm nguyện, về lại quê hương sinh sống, rõ ràng còn có cơ hội có thể giết ra ngoài, dựa vào đâu lại bắt họ chết chung cùng ta ở chỗ này chứ?”
“Tôi theo tướng quân!” Dương Hổ không chút do dự nói.
Khương Hàm Nguyên thản nhiên nói: “Một mình Thôi Lâu e là không thể dẫn đội phá vây, cậu và cậu ấy phải phối hợp lẫn nhau, dẫn đội riêng mình! Đây là mệnh lệnh! Ta không cần người đi cùng, thêm một người là thêm một phần vướng víu.”
“Tướng quân!” Ánh nước lóe ra trong mắt Dương Hổ, run giọng gọi. Khương Hàm Nguyên thảng như chẳng nghe thấy, xoay sang Thôi Lâu đang im lặng.
Cậu chậm rãi, quỳ xuống trước cô, dập đầu liên tục, trầm giọng nói: “Mạt tướng nhất định dốc hết toàn lực, không phụ tướng quân nhờ vả!”
Cô lại nhìn sang Dương Hổ, Dương Hổ nắm chặt quyền, cắn răng, rồi cũng từ từ quỳ xuống.
Khương Hàm Nguyên ra hiệu hai người đứng dậy, vạch ra trên mặt đất tuyến đường mình muốn trùng sát ra, và tuyến đường hai người họ sẽ phá vây. Xong xuôi, lệnh cho cả hai tiến hành sắp xếp cùng đám binh sĩ.
Dương Hổ Thôi Lâu đi vào giữa đám binh, bàn giao lại kế hoạch của cô, chỉ không nói tới việc cô đơn thương độc mã trùng sát ra, các binh sĩ tưởng đã có sắp xếp khác, chẳng ai sinh nghi.
Đám binh này phần lớn đến từ Thanh Mộc Doanh, nuôi dưỡng chiến thuật cực cao, kỷ luật nghiêm minh, ngay lập tức hiểu rõ hành động tiếp theo, ghi nhận xong vội xôn xao chuẩn bị, ai cũng kích động.
Khương Hàm Nguyên ngồi dưới đất nhắm mắt dưỡng thần, lát sau, mở mắt.
Dương Hổ quay lại, yên lặng dừng trước mặt cô.
“Tất thảy đều theo lời dặn của Tướng quân, sắp xếp xong.” Cậu thấp giọng.
Khương Hàm Nguyên gật đầu: “Cậu cũng đi nghỉ ngơi đi, chuẩn bị ác chiến.”
Dương Hổ cúi đầu, chậm rãi quay đi.
“Chờ một chút.”
Khương Hàm Nguyên chợt gọi giật, im lặng một lát, rồi rút ra một thanh đoản đao vẫn kè kè bên hông đưa tới, mỉm cười: “Phiền cậu, sau này nếu có thể gặp được Nhiếp Chính Vương, thay ta trả thanh đao này lại cho chàng. Nói rằng— “
Cô dừng lại.
Lời muốn nói, như rất nhiều rất nhiều, vào giây phút này toàn bộ dâng lên trong lòng. Nhưng nghĩ lại, không biết nên nói câu nào.
— nếu như còn có kiếp sau, tiểu tốt kia, tình nguyện dẫn đường cho chàng lần nữa.
Trong lòng cô tự dưng nhảy ra câu này, hơi ngây ra.
Lúc này, một vọng binh đột nhiên kinh hô: “Tướng quân! Bên ngoài có một người đến!”
“Là Nhiếp Chính Vương! Lần trước ở thành Phong Diệp tám Bộ tôi từng gặp ngài! Chính là Nhiếp Chính Vương!”
“Không sai! Chính là ngài ấy!”
“Hình như ngài ấy bị thương! Trán đang chảy máu!”
“Sao hình như chỉ có một mình ngài ấy!”
Binh có thể được tuyển làm vọng binh có ánh mắt vô cùng tốt. Cùng với tiếng hắn liên tục hô, còn có tiếng hỗn loạn bên ngoài, có vẻ như binh Địch đang gấp rút kết đội, ngựa hí vang, không khí khẩn trương.
Tim Khương Hàm Nguyên bỗng giật thót, tỉnh táo hẳn, nhảy bổ lên vội chạy qua chỗ binh sĩ, thò người ra miệng ngắm nhỏ bốn phương của Tắc lũy, nhìn ra ngoài.
Bên ngoài, lửa đuốc vây quanh Tắc luỹ giữa quân trận sáng tỏ, cô nhìn thấy trên đỉnh đồi cách chưa đến một bước tên, một thớt chiến mã đang dừng ở đó, trên lưng ngựa, một người ngồi cao cao, một tay giơ đuốc lửa, tay kia nắm lấy cương ngựa. Gió đêm cực lớn, thổi lửa bó đuốc như ù ù rung động, tia sáng nhảy nhót, phản chiếu tóc trên đầu chàng ướt sũng, khuôn mặt có phần tái nhợt.
Quả nhiên là Thúc Thận Huy!
Vọng binh nói không sai, một bên thái dương chàng đọng vết máu, có vẻ như là đơn thương độc mã, thậm chí ngựa của chàng, nhìn từ bí yên* để phán đoán, tựa như cũng là chiến mã của người Địch.
(*) bộ hàm thiếc, dây cương và yên ngựa
Sao chàng lại tới đây? Chàng xông tới, cách quân Địch gần đến thế, là muốn làm gì?
Cô sợ ngây cả người, tim đập thình thịch, còn chưa hồi thần hẳn đã nghe y cất tiếng cười to.
“Sí Thư! Còn nhớ bổn Vương chứ? Đại Ngụy Nhiếp Chính Thúc Thận Huy! Trường An từ biệt, hôm nay lại gặp! Hôm ấy ngươi rơi vào trong tay bổn Vương, bị chó cắn xé, sống không được, chết cũng không xong, bày trò hề, cuối cùng như thằn lằn tự chặt một tay mới may mắn chạy thoát. Nghe nói sau này cánh tay cụt của ngươi khảm nối thiết trảo, dùng làm binh khí, không biết dùng có tiện không? Nếu không tiện, bổn vương có thể chế tạo giúp ngươi, xem như đền tội! “
Y ở trên cao nói, tập trung mười phần khí, ai nấy đều nghe rõ rành rành, tiếng cười theo gió đêm truyền khắp bốn phía, tràn ngập ý khinh miệt. Đương lúc tiếng cười chưa dứt, thấy y tiện tay ném bó đuốc trong tay về phía đối diện, bỗng cầm cung tên treo bên yên ngựa, kéo căng dây cung, bắn tới một mũi.
Vũ tiễn như mang theo sức lực ngàn quân, bay vút đến Sí Thư. Mấy thân vệ bên cạnh nhào tới, một phát đẩy Sí Thư ngã nhào xuống đất, một sĩ quan phía sau gã không tránh kịp, chưa kịp phản ứng thì mũi tên đã đâm vào yết hầu, xuyên thủng mà ra. Hắn bị bắn ngã ra đất, che cổ họng ré lên ú ớ đau đớn.
“Đại Ngụy Nhiếp Chính Vương!”
Binh Địch nhao nhao kinh hô. Sí Thư vì tránh tên, không khỏi chật vật, thấy người chung quanh xôn xao quay lại nhìn mình, ánh mắt xói vào cánh tay trái của gã, càng thêm mặt đỏ tía tai.
Một chuyện như chuyện hôm ấy đương nhiên gã không để kẻ nào biết được, nào ngờ lại bị giễu cợt trước đám đông, nổi cơn khùng, hận ngó đăm đăm bóng người trên dốc núi đối diện, lại quay sang toà Tắc luỹ sắp công phá sau lưng, đang do dự không quyết, một binh sĩ vừa nãy lặng lẽ đến gần điều tra chạy vội về, vừa chạy, vừa rống lớn: “Hắn chỉ có một mình! Hắn chỉ một mình! Phía sau không có binh mã ——” lời còn chưa dứt, Thúc Thận Huy lại phát một tên, binh Địch ngã nhào xuống đất.
Trong quân Địch dấy lên cơn xôn xao.
Với thân phận của đối phương đơn thương độc mã đến khiêu chiến, trong phút chốc bọn chúng sao dám hành động thiếu suy nghĩ, chỉ e có trá. Giờ đã xác định không ngờ Nhiếp Chính Vương Đại Ngụy này lại thật sự đến một mình, lập tức bạo dạn hơn.
Nếu bắt sống được Đại Ngụy Nhiếp Chính Vương — đừng nói bắt sống, cho dù là g.iết ch.ết, đừng nói đến công lao, danh vọng to lớn từ đây, có thể nghĩ.
Trong mắt người người, bắn ra tia hưng phấn đầy tham lam.
Mối hận ngày ấy bị chó cắn xé, nỗi nhục tên bắn xuyên ngực, đẩy đến nỗi đau mất tay, từng việc một hiển hiện trong lòng, cặp mắt Sí Thư đỏ ngầu, không do dự nữa, cho người tiếp tục vây quanh, tự mình lên ngựa dẫn theo một toán quân nhanh chóng đuổi đến dốc núi đối diện.
Thúc Thận Huy dừng ngựa ở đỉnh dốc, lù lù bất động, đón gió đêm từ trên cao nhìn xuống, từ đầu đến cuối lặng lẽ nhìn phía trước, mãi đến khi Sí Thư dẫn người đuổi tới dưới dốc núi, loạn tiễn cùng phát lên đỉnh dốc, mới hơi xoay mặt, ngắm nhìn toà Tắc lũy được bóng đêm bao phủ, lập tức giục ngựa, trầm thấp quát to một tiếng “giá”, quay đầu, phóng ngựa xuống dốc.
Bóng người trên đỉnh dốc núi đột nhiên mất dạng.
Khương Hàm Nguyên đứng ở miệng ngắm nhìn ra bốn bề nho nhỏ kia, siết hai tay thật chặt, tim muốn nhảy vọt khỏi cổ họng, yết hầu nấc nghẹn.
Khoảng cách này, chàng sẽ không thể nào thấy mình. Song cô biết, cái thoáng quay đầu nhìn sau cùng, chính là nhìn mình —— chàng đang nhìn cô.
Cô cũng biết chàng muốn làm chuyện gì.
Cứ như thần giao cách cảm.
Chàng làm chuyện mà cô vốn muốn làm.
Suy nghĩ chực nhảy vào trong đầu khiến cô tỉnh táo lại. Chàng đã tạo cho cô cơ hội, cô không thể bỏ qua!
Cô buộc phải nhanh chóng dẫn binh trùng sát ra ngoài, sau đó, đi tiếp ứng chàng.
Cô nhanh chóng ép hơi nóng trong mắt xuống, bỗng quay lại, cao giọng quát toán binh sĩ: “Toàn bộ chuẩn bị! Theo kế hoạch mới, giết ra!