Thành lâu cao ngất, tầng tầng gạch xanh¹, bởi vì cơn mưa xuân vừa dứt, mặt tường bị xối rửa hiện ra màu xám đậm. Lá cờ vàng sáng chói phấp phới trên đỉnh thành, những dây tua đen đỏ đan xen đón gió tung bay. Đám quan viên mặc đủ các loại triều phục, dung mạo tư thái nghiêm túc chỉnh tề, dựa theo cấp bậc chức vị mà đứng.
Đứng chính giữa dưới hoa cái² hoạ tiết rồng bay là một chàng trai cao gầy, mặc bộ trường bào tay rộng vàng kim, trường bào thêu cửu long giá vân, bên hông là đai lưng bạch ngọc, buông rũ trường tuệ³ hoa văn hắc hồng vân. Tóc đen được búi lên, dùng kim quan⁴ có đính một viên ngọc cố định lại, để lộ gương mặt tuấn nhã đoan hòa. Thần sắc ngài nhẹ nhàng cười cười, giữa mi mày lại không áp chế được khí chất thâm trầm, ngạo nghễ, thản nhiên của đế vương, quả thật chính là không giận tự uy, tuy cười nhưng lại hàm chứa sự áp bách.
Thân phận ấy không nói cũng biết, chính là tân đế của Đại Khải vừa đăng cơ cách đây nửa năm.
Những đại thần khác đứng ở hai bên, cách hoàng đế khoảng bảy bước chân. Nhưng đứng bên cạnh hoàng đế, kề sát tay trái của bệ hạ, vẫn còn một người nữa. Người nọ mặc một bộ quan phục đỏ nhạt, vạt áo thêu phi nhạn diên hoa⁵, đai lưng màu đen thắt quanh vòng eo tinh tế. Dựa vào phẩm cấp quan phục, chức quan của người này cũng không quá cao, nhưng lại đứng rất gần với hoàng đế, phô bày rõ sự thân mật, gần như đã chạm vào vai hoàng đế.
Nhìn đến dung nhan người nọ, quả nhiên là tuấn mỹ hơn người, thậm chí còn lấn át cả hoàng đế bệ hạ bên cạnh. Hắn cười rất hào sảng, khoan khoái, khóe miệng cong lên, để lộ nụ cười hết sức rạng rỡ. Chỉ có điều, sắc môi hắn nhợt nhạt, khí sắc không đủ, cho nên tất cả thần thái chói mắt đều ngưng đọng trong đôi mắt sáng ngời ấy. Ánh mắt long lanh tròn đầy, lông mi dày đậm tinh xảo, con ngươi nâu trong sáng lưu chuyển, khiến người ta kìm lòng không đặng mà liên tưởng đến hoa đào gió xuân làm xiêu lòng người.
Hắn cứ nói liên tục, trong hoàn cảnh này có vẻ hơi ồn ào, nhưng hoàng đế giống như đã tập mãi thành quen, đôi mắt khép hờ, như cười nhưng lại chẳng cười, như nghe mà lại chẳng nghe, một bộ dáng mặc sức tùy ý. Trong những lão thần mặc triều phục đỏ tía⁶ đứng bên cạnh, dường như có một hai người không kiên nhẫn được, liếc nhìn một cái, rồi lại cúi đầu thở dài, chẳng hề nói gì.
Đó là ngọc diện⁷ công tử của kinh thành, nhị thiếu Diệp gia - Diệp Thiệu Khanh, ỷ vào sự sủng ái của hoàng đế mà những việc xem nhẹ lễ nghi cũng đã làm không ít. Hôm nay hắn mặc triều phục ngay ngắn, búi tóc đội mũ ô sa⁸ đã là không dễ rồi.
Tiếng kèn từ xa truyền tới, nhưng khi truyền đến đây lại trở nên nhè nhẹ khoan thai.
"Cuối cùng cũng đến rồi." Diệp Thiệu Khanh nghe thấy tiếng động liền quay đầu xuống dưới lầu, nheo mắt, nhìn đội quân giáp đen nối đuôi nhau, chầm chậm đến gần. Đập vào tầm mắt là chữ "Diệp" cùng cờ hiệu mang quốc hiệu của Đại Khải đang dẫn đầu. Diệp Thiệu Khanh mỉm cười tiến lên một bước, giống hệt như một đứa trẻ, đặt tay lên bệ tường thành, nhướng người nhoài ra ngoài nhìn. Hoàng đế nhìn hắn một cái, vẫn đứng yên như cũ, phóng xa tầm mắt.
"Định Viễn đại tướng quân đến!"
Theo một tiếng ngựa hí, từ xa, có một người phóng lên trước, trong chốc lát đã đến dưới cổng thành. Hắn tiêu sái tung người xuống ngựa, cúi người quỳ một chân, khôi giáp dày nặng phát ra tiếng va đập mạnh mẽ dứt khoát: "Thần dẫn theo ba vạn đại quân Du Tây, trở về triều."
"Ái khanh mau đứng lên." Hoàng đế đứng trên cổng thành, lộ ra ý cười ôn hòa: "Lần này Diệp tướng quân đánh quân Viêm đại bại, trấn định Tây Cảnh của ta, khải hoàn hồi triều, trẫm rất yên lòng. Thỉnh chư tướng sĩ vào thành, đợi trẫm hậu hĩnh thưởng thêm."
Diệp Minh Tu hai tay ôm quyền, nâng qua đỉnh đầu hành lễ, thanh âm vang dội: "Là nhờ hồng phúc của bệ hạ bảo hộ, thần đại diện chúng tướng sĩ tạ chủ long ân! Bệ hạ vạn tuế, vạn vạn tuế!"
Tiếp lời của hắn là tiếng hô vang đồng thanh của đám tướng sĩ đen nghịt phía sau: "Bệ hạ vạn tuế, vạn vạn tuế!" Tiếng hô dõng dạc của mấy vạn người ở trên bình nguyên rộng lớn bên ngoài thành lũy cứ vang vọng liên tục, hết đợt này đến đợt khác, khí thế oanh tạc, thể hiện sự hùng hồn, sục sôi khi khải hoàn trở về.
Khóe miệng hoàng đế hơi hơi nhếch lên, nhìn qua đội quân, không nói gì thêm. Diệp Thiệu Khanh chống cằm, quay đầu nhìn hắn. Dáng cười của Hoàng đế lúc bấy giờ mới phảng phất vẻ sáng ngời diễm lệ, chỉ có điều, đôi mắt đen của ngài thăm thẳm, chút điểm vui sướng ấy rất nhanh đã bị thu lại, không thể nhìn ra được đang có cảm tình gì.
Diệp Thiệu Khanh quay đầu, vừa đúng lúc Diệp Minh Tu ở bên dưới đứng dậy lên ngựa, lúc đã ngồi vững mới ngẩng đầu trông lại. Diệp Thiệu Khanh lập tức nhướng mày, lộ ra vẻ tươi cười rạng rỡ, mấp máy miệng nhưng không phát ra tiếng, đọc lên hai chữ: "Đại ca". Mắt Diệp Minh Tu thoáng qua ý cười, nhưng trên mặt lại nhíu mày, đánh cho hắn một ánh mắt cảnh cáo. Diệp Thiệu Khanh cúi đầu nhìn lướt qua dáng vẻ đang nằm rạp trên tường thành của mình, đứng thẳng người lên, chẳng hề để bụng, vẫn nhìn Diệp Minh Tu ở bên dưới mà cười mãi. Diệp Minh Tu không nhìn hắn nữa, thúc ngựa chậm rãi tiến vào cổng thành đã mở rộng.
Đợi Diệp Minh Tu đi qua cổng thành, Diệp Thiệu Khanh mới chú ý đến dáng người của phó quan vẫn luôn đi sau Diệp Minh Tu vài bước chân. Y đội mũ giáp có tua đỏ trên đỉnh, người khoác giáp đen, là trang phục bình thường của quân nhân, chỉ để lộ một góc nhỏ trên khuôn mặt. Y lại hơi cúi đầu, Diệp Thiệu Khanh cũng chỉ có thể nhìn thấy hàng lông mày rậm rạp cùng sống mũi của y.
"Đó là Tống..." Diệp Thiệu Khanh nghĩ nghĩ, không nói ra vế sau chữ "Tống" ấy.
"Ngươi đúng là tinh mắt." Hoàng đế cũng vừa thu lại ánh mắt: "Tống Linh Uẩn".
"À, thì ra..." Diệp Thiệu Khanh gật gật đầu: "Người mà đại ca lần này hồi tấu nói là thân tín nhiều lần lập chiến công chính là y?"
Hoàng đế gật gật đầu.
"Bệ hạ phải ban thưởng?" Diệp Thiệu Khanh dừng một chút, nhẹ giọng hỏi.
"Đương nhiên." Hoàng đế nhìn hắn một cái, bình tĩnh nói.
"Thưởng thế nào?"
"Ý ngươi thì sao?"
"Dẫn đầu xông trận, đánh hạ ba thành trì, lấy được thủ cấp đại tướng của quân địch." Diệp Thiệu Khanh sờ sờ mũi: "Cho đảm đương chức vị tướng quân cũng không quá đáng."
"Được." Hoàng đế nhanh gọn đáp lại một câu, nhàn nhạt cười một tiếng, phất tay xoay người.
Diệp Thiệu Khanh khẽ nhíu mày, lại nhìn dưới thành lần nữa, sớm đã không còn thấy thân ảnh người kia, trong lòng âm thầm ngẫm nghĩ. Sau nửa ngày cuối cùng cũng hồi tưởng lại được một chút hình bóng vụn vặt năm xưa của người nọ. Đại khái là hình ảnh một thiếu niên trắng nõn gầy gò, nhìn vào trang giấy khẽ cau mày. Hắn chẳng nhớ rõ nữa, không khỏi lắc lắc đầu. Hắn lại đứng thẳng dậy, hoàng đế đã đi được một đoạn, đang đứng đợi hắn ở bậc thang dẫn xuống thành lâu.
Diệp Thiệu Khanh bước nhanh đến, hoàng đế lườm hắn một cái: "Lại nghĩ tới cái gì?"
Diệp Thiệu Khanh giật giật ống tay áo, lại tiếp tục lắc đầu, không rõ hàm ý mà nói: "Đáng tiếc, đáng tiếc."
Hoàng đế nhẹ nhàng cười "Hừ" một tiếng, cùng sóng vai đi xuống lầu với hắn.
Khắp cả Loan Linh Đài thắp đèn sáng rực như ban ngày, đàn ca sáo nhị⁹, hợp ca huyên náo vang vọng khắp đài.
Trên yến tiệc ăn mừng đại thắng Tây Cảnh, đám vương công đại thần rượu thịt linh đình, nói cười rộn rã. Từ khi tiên đế băng hà đến nay, dường như đây mới là lần đầu tiên Đại Khải chân chính nghênh đón một sự kiện trọng đại đáng vui mừng như vậy.
Diệp Thiệu Khanh rốt cuộc cũng được ngồi chung với Diệp Minh Tu, bàn rượu nhỏ của hai người vốn đã kề sát, hắn lại còn ngồi lấn sang bên bàn của Diệp Minh Tu, chống cằm rũ mắt xem một nhạc kĩ ở đầu bên kia gảy tì bà. Rất nhiều người kính rượu với Diệp Minh Tu, mỗi một chén Diệp Minh Tu đều hào sảng uống cạn, nhưng chẳng có ai chủ động mời rượu Diệp Thiệu Khanh. Bởi vì mọi người đều biết, Diệp Thiệu Khanh thân ôm bệnh cũ, quãng đời còn lại cấm tiệt men rượu. Bên tay hắn chỉ có một chén trà¹⁰, Bạch Loa Tuyết Tiêm trong bát sớm đã nguội lạnh, không động đến dù chỉ một chút.
Diệp Minh Tu chẳng hề nhàn rỗi để mà chú tâm đến Diệp Thiệu Khanh, Diệp Thiệu Khanh có vẻ hơi nhàm chán mà di dời tầm mắt. Ở chủ vị trên đài cao bên kia, hoàng đế cởi long bào vàng kim ra, trên người là lễ phục hắc long đỏ thẫm. Ngài đang nghiêng đầu, thần sắc ấm áp hoà hợp nói chuyện cùng hoàng hậu. Hoàng hậu lấy một miếng bánh ngọt đưa qua, ngài cúi đầu ngậm lấy rồi cắn nhẹ một miếng, lại nói gì đó khiến hoàng hậu mím môi khẽ cười.
Diệp Thiệu Khanh dời tầm mắt, chuyển hướng đến người đang ngồi đối diện, sau lưng một người khác. Tống Linh Uẩn.
Cởi bỏ khôi giáp dày cộm nặng nề, Diệp Thiệu Khanh mới nhìn rõ dáng vẻ của y.
Y ăn mặc cực kì giản đơn, áo ngoài nguyệt sắc, phủ lên kiếm tụ trường bào¹¹ màu đen bên trong, ống tay áo bó vào cổ tay, trông rất có sức sống. Y dùng một cái ngọc quan buộc lại tóc đen trên đỉnh đầu, tóc dài buông xuống, mềm mại vắt trên đầu vai. Trước đó, Diệp Thiệu Khanh chỉ nhớ được một chút về dung mạo của y nhưng không rõ ràng lắm. Bây giờ xem ra, so với ấn tượng trong trí nhớ của hắn lại chẳng sai lệch chút nào-- Đẹp. Đúng vậy, ấn tượng của Diệp Thiệu Khanh đối với vẻ ngoài của Tống Linh Uẩn chỉ sót lại mỗi một từ như thế.
Trời sinh cho Tống Linh Uẩn một gương mặt đạm bạc thanh nhã. Đỉnh mày bình bình chứ không sắc nhọn mạnh mẽ, đôi mắt dài mảnh như lá liễu, chỉ có một mí mắt mong mỏng. Lông mi lại cực kì rậm, cực kì dài, độ cung nơi khóe mắt cũng kéo dài ra, vô tình mang lại cảm giác lôi cuốn đến không ngờ. Môi của y là đẹp nhất, trên mỏng dưới dày, môi châu đầy đặn, mềm mại đỏ tươi. Nếu nhớ lại thuở nhỏ, khi ấy Tống Linh Uẩn chính là thế gia công tử, chẳng bao giờ ra khỏi nhà, da thì trắng như tuyết. Gương mặt ấy lại hơi giống với tướng mạo nữ tử, khó trách lưu lại cho Diệp Thiệu Khanh một ấn tượng có nhiều hình dung đến nữ tử như vậy.
Nhưng giờ đây Tống Linh Uẩn đã thành niên, dáng người cao lớn, lại ở trong quân doanh lâu năm, phơi thành màu da lúa mì. Lúc này nhìn lại, không ngờ lại có một loại cảm giác tuấn lãng thanh dật. Tống Linh Uẩn ngồi ngay ngắn ở bên đó, không chủ động trò chuyện với người khác, nhưng trong yến tiệc, dần dần cũng có người đi tới, cùng y nâng ly cạn chén. Y cũng sẽ đón nhận, tuy bề ngoài không được nhiệt tình, nhưng cũng không cự tuyệt người khác lặn lội ngàn dặm, không mặn không nhạt coi như lịch sự đáp lễ.
Diệp Thiệu Khanh vẫn cứ nhìn y mãi.
Bởi vì trước đó, trên đại điện ban thưởng, hoàng đế phong Tống Linh Uẩn là Chiêu Vũ tướng quân, cũng phong làm Hữu Kiêu Vệ tướng quân¹². Cái trước chỉ là một phong hiệu quan tướng nhàn tản, mà cái sau lại là một chức quan có thực quyền, lĩnh nhận báo kỵ¹³. Câu nói của Diệp Thiệu Khanh khi ở trên tường thành, đương nhiên là chỉ đến phong hiệu "tướng quân" đầu tiên. Hoàng đế ban cho phong hiệu này, có ý muốn giữ Tống Linh Uẩn ở lại thủ hộ kinh thành, không thể đi theo đội quân trở về đóng giữ Tây Cảnh. Mà trước khi hoàng đế phong thưởng, cũng không hề thương lượng với Diệp Thiệu Khanh.
Có lẽ do Diệp Thiệu Khanh nhìn chằm chằm vào y quá lâu, Tống Linh Uẩn tựa như có cảm giác, nhẹ nhàng cau mày, nâng mắt nhìn lại.
Ánh mắt của Diệp Thiệu Khanh và y cùng va vào nhau. Sau khi bị phát hiện đang dòm ngó người khác, vậy mà hắn chẳng hề lúng túng hay ngượng ngùng chút nào. Hắn hơi nhướng mày, cong môi, bày ra một nụ cười ung dung tao nhã.
Vẻ mặt Tống Linh Uẩn sững sờ trong giây lát, nhưng rất nhanh sau đó y liền hạ mi mắt, lịch sự ôn hòa đáp lại bằng nụ cười nhàn nhạt.
Điều này hoàn toàn nằm ngoài dự đoán của Diệp Thiệu Khanh. Dựa vào lẽ thường mà nói, phản ứng đó của Tống Linh Uẩn mới đúng là bình thường, nhưng trong lòng Diệp Thiệu Khanh lại lờ mờ cảm thấy rất kỳ quái.
Sau một vòng tiếp đón rượu mời, Diệp Minh Tu vừa mới có được khoảng trống nhàn hạ, nhìn qua bên cạnh xem thử, lại chẳng thấy bóng dáng Diệp Thiệu Khanh đâu. Hắn nhíu mày, liếc mắt nhìn lên chủ vị, hoàng đế vẫn ngồi đó như cũ, nội thị đang dựa vào bên tai hắn nói gì đó.
Diệp Minh Tu đứng dậy, cầm theo bình rượu, kêu to một tiếng: "Cảnh Nghi!"
Tống Linh Uẩn nghe thấy tiếng, đứng lên đón tiếp: "Tướng quân".
Hoàng thượng lướt nhẹ qua bên này một cái, rồi thu hồi tầm mắt.
Cung điện còn đang được tu sửa, đêm khuya, nhóm thợ đã tan làm từ lâu, chỉ có vài chiếc đèn lồng dưới mái hiên chính điện vẫn đang còn thắp sáng.
Lớp sơn đỏ trên lầu cao mới tô được phân nửa, mùi sơn nhàn nhạt tràn ngập khắp nơi.
Diệp Thiệu Khanh dựa lên lan can, nhìn về chân trời sâu thẳm đến xuất thần. Đêm đầu xuân, làn mây đen mỏng che lấp trăng sáng, sao trời cũng không quá rõ ràng, sương mù mông lung. Nơi này cách Loan Linh Đài rất xa, âm thanh nhạc khúc không truyền đến được, có vẻ hơi lạnh lẽo vắng vẻ.
Gió xuân lướt qua, trang giấy dùng để che đậy lớp sơn mới trét trong góc phòng tung bay, đập vào vách tường phát ra tiếng kêu loạt xoạt, hoà cùng âm thanh xào xạc của cây lá từ trong khu rừng trước mặt. Diệp Thiệu Khanh nhìn qua mái đình và giả sơn nơi xa, hoảng hốt vươn tay ra, vạt quan phục rộng lớn của hắn liền phất phới trong không trung.
"Công tử." Nữ tử luôn đứng cách xa hắn mấy bước đã lên tiếng gọi hắn tỉnh lại. Nữ tử kia mặc áo ngắn màu ngó sen, váy dài nhạt màu hoa hạnh, cách ăn mặc phổ thông của thị nữ. Bộ dáng khá xinh xắn, nhưng thần sắc lại thận trọng thâm trầm.
"Yên tâm, ta vẫn chưa bị mất thần trí." Diệp Thiệu Khanh lập tức thu tay về, cười híp mắt đáp lại nàng.
Thị nữ lắc lắc đầu, hất hất cằm về phía xa sau lưng hắn.
Diệp Thiệu Khanh thuận theo tầm mắt của nàng nhìn lại, ngoài cửa chính sáng lên hai ngọn đèn chỉnh tề, dừng ở đó, bất động. Một lát sau, chỉ có một chiếc đèn chậm rãi tiến vào cửa.
Diệp Thiệu Khanh không động, mềm mại tựa lên lan can, nhìn không ra cảm xúc trên mặt.
Hoàng đế đi lên trên lầu, cầm lấy đèn lồng trong tay nội thị, thanh âm nhàn nhạt mà nói: "Lui ra đi."
Diệp Thiệu Khanh chau mày, lộ ra một chút không vui, nhưng rất nhanh sau đó hắn đã nén vẻ mặt này xuống, đứng yên tại chỗ hồi lâu.Hoàng đế lại giũ giũ áo choàng lần nữa.
Cuối cùng, Diệp Thiệu Khanh cũng tiến lên trước mấy bước, đến trước mặt hoàng đế hơi khom eo xuống, để hoàng đế tự tay khoác áo choàng lên người mình.
Diệp Thiệu Khanh nâng tay thắt dây áo, hoàng đế liền hất tay của hắn ra, không nhanh không chậm thắt thành nút: "Đầu mùa xuân gió còn mạnh, ngày mai nhất định sẽ ho khan."
Trong mắt Diệp Thiệu Khanh lóe lên vẻ lãnh đạm âm u, trầm mặc được một lúc, mới dùng ngữ khí hờ hững nói: "Hiện tại Bệ hạ cũng không cần thương lượng với thần việc gì nữa rồi, còn quản thần có ho khan hay không." Lời này của hắn dù có dùng tôn xưng, nhưng nội dung quả thực là đại bất kính.
"Là so đo chuyện của Tống Cảnh Nghi?" Hoàng đế cũng không giận, lắc lắc đầu, bằng lòng nói: "Là trẫm sơ suất, không nói trước với ngươi một tiếng."
Cảnh Nghi là tự của Tống Linh Uẩn, thời điểm Diệp Thiệu Khanh quen biết Tống Linh Uẩn cũng chỉ mới mười ba, mười bốn tuổi, cho nên chưa từng biết đến tự của y. Bây giờ nghe thấy lạ tai, nhíu nhíu mày trả lời: "Bệ hạ... muốn dùng y?"
Hoàng đế chắp tay sau lưng, cười nhẹ một tiếng: "Không sai."
Diệp Thiệu Khanh còn cười giễu một tiếng, lặp lại một lần: "Dùng y?"
Thấy thần sắc của hoàng đế lãnh đạm mà không phải dáng vẻ cười đùa, Diệp Thiệu Khanh liền thu lại nét cười, vẻ mặt lạnh đi: "Y họ Tống."
Hoàng đế cũng ngắm nhìn chân trời, giống hệt dáng vẻ vừa nãy của Diệp Thiệu Khanh: "Nếu dùng tốt, sẽ là nước cờ hay."
"Người bị ép đến bước đường này lúc nào vậy?" Diệp Thiệu Khanh nhướng mày, thô lỗ nói.
"Thiệu Khanh." Hoàng đế trầm giọng gọi, trong giọng nói mang theo ý cảnh cáo.
Diệp Thiệu Khanh nhìn thoáng qua, thấy trong mắt hắn nhàn nhạt uy phong áp chế, biết bản thân đã xấc xược, liền cúi đầu nói khẽ: "Thần biết tội."
Hoàng đế tiến gần thêm lần nữa, như thể trấn an hắn mà quanh co khẽ nói: "Thời điểm quan trọng, trẫm... là bất đắc dĩ."
Diệp Thiệu Khanh chớp chớp mắt, đã nhìn thông suốt được điều gì đó: "Bệ hạ muốn thần kết thân với y?"
Hoàng đế chầm chậm cười một tiếng, không nói năng gì. Đôi mắt đen của hắn dịu dàng, sáng tỏ. Lưu chuyển trong đôi mắt ấy là sự khôn khéo giảo quyệt cùng sự tự tin khi bày mưu lập kế, càng hiện ra phong thái cao cao kiệt xuất.
Diệp Thiệu Khanh rũ mắt, nhìn chằm vào cặp mắt kia rất lâu, chuyên chú đến mức bản thân cũng không nhận ra.
Hoàng đế lập tức phát hiện bầu không khí đột nhiên an tĩnh, còn Diệp Thiệu Khanh lại đang ngơ ngác xuất thần.
Hắn không cử động, nhìn thẳng vào mắt Diệp Thiệu Khanh.
Diệp Thiệu Khanh cũng không động, trong đồng tử màu nâu thấp thoáng có một ngọn lửa chập chờn, hiu hắt.
Hoàng đế sớm đã giấu đi ý cười, khóe miệng của hắn khẽ ghìm lại, trong mắt nổi lên ý nguội lạnh: "A Lâm". Hoàng đế gọi như thế, thanh âm vững vàng, áp chế người khác.
Vẻ mặt Diệp Thiệu Khanh lúc này mới khẽ buông lỏng, giữa mày thoáng nổi lên sự lạc lõng mờ nhạt. Sau đó lại là ý cười tự giễu nhạt nhoà, cảm xúc thể hiện trong mắt hắn đều bị kiềm nén, đè xuống lại. Hắn lui về sau một bước, mới mở miệng nói: "Thần sẽ tự giải quyết tốt." Hắn vừa nói, vừa nhìn về phía chân trời, tựa như đang che giấu chuyện gì: "Sắc trời đã tối, thần tiễn bệ hạ về tẩm điện vậy."
Hoàng đế đáp: "Hôm nay, trẫm ở Phượng Tê Cung."
Diệp Thiệu Khanh ngẩn người, nét cười rất nhanh đã hiện lên lần nữa, kéo tay áo hành lễ "Vâng". Hắn cúi đầu xuống, tựa trán lên tay: "Thần cung tiễn bệ hạ."
Hoàng đế nhìn hắn một cái, quay người rời đi.
Đợi đèn lồng của hoàng đế biến mất khỏi hành lang, A Thất mới gọi một tiếng "Công tử" trầm thấp, tựa như thở dài.
Diệp Thiệu Khanh đứng thẳng lên, trông về hành lang đài các trống rỗng, ngón tay đặt lên dây buộc trên cổ áo choàng, cẩn thận vuốt ve. Hắn nhếch môi, khuôn mặt tuấn tú thanh lãnh như sương.
.
.
.
Chú thích:
1) Gạch xanh
2) Hoa Cái (华盖): Thường đề cập đến lọng che dành riêng cho đế vương. Hoa Cái còn là tên 1 chòm sao nằm trong bộ sao Tứ linh gồm: Long Trì, Phượng Cát, Hoa Cái, Bạch Hổ. Cũng vì thế mà dưới thời phong kiến của Trung Hoa, biểu tượng cho vương quyền là hình ảnh như: Long chầu, Hổ phục, Phượng múa và lọng che Hoa Cái.
3) Trường tuệ (长穗): Tuệ (穗子)hay gọi là dây tua rua, đồng tâm kết; "trường tuệ" là dây dài. Hắc hồng là đen và đỏ, phối giống dưới hình. Còn hoa văn mây thì có thể là kết thành hình mây hoặc ngọc bội khắc vân mây.
4) Kim quan (金冠)
5) Phi nhạn diên hoa (飞雁鸢花): Nhạn là con vịt trời, diên hoa là hoa diên vĩ.
★Fact nhỏ:
Trên quan phục thời nhà Thanh, ngay trước ngực sẽ có một bức thêu như thế này. Có 9 phẩm cấp cho quan lại, chia thành quan văn và quan võ. Tổng cộng sẽ có 18 hình thêu khác nhau, mỗi một hình đại diện cho một phẩm cấp.
Dưới đây là hình Vân nhạn (có nghĩa là con nhạn bay trên trời cao), là hình thêu trên áo của quan văn tứ phẩm. Vân nhạn khi bay sẽ có trật tự, như một biểu tượng của lễ nghi và văn minh.
Cách trang trí xung quanh thì còn tùy thiết kế, chỉ cần đảm bảo thêu đúng theo quy định của từng phẩm cấp là được.
Nhưng vì trong truyện tác giả có đề cập đến Hữu Kiêu Vệ thời Tùy và Đường, nên không thể chắc chắn trang phục được thiết kế dựa theo thời Thanh được.
Còn đây là triều phục dành cho đại điển thời Đường:
Triều phục của quan văn tứ phẩm Đại Đường. Dựa vào ảnh phác hoạ thì triều phục thời Đường không có hoa văn hoạ tiết.
☆Lưu ý: Trang phục mà tác giả đang tả là sự pha trộn kiến thức và văn hoá của nhiều triều đại lại với nhau. Trong mỗi triều đại cũng có nhiều thiết kế khác nữa. Mọi người có thể tưởng tượng sao cũng được nha, không gò bó trong một triều đại nào hết, đây là bối cảnh tác giả tự sáng tạo.
6) Quan phục màu đỏ tía của quan văn thời Đường.
Thời Đường quy định màu đỏ tía (hoặc tím) là trang phục của quan viên tam phẩm trở lên. Màu đỏ rực là trang phục của quan tứ, ngũ phẩm. Màu xanh lục là trang phục của quan lục phẩm, thất phẩm, còn bát phẩm, cửu phẩm là màu xanh lam.
7) Ngọc diện (玉面): Từ này có nhiều nghĩa nên trong trường hợp này có thể hiểu theo nhiều cách: thứ nhất, là công tử dịu dàng, thanh tao như ngọc; hoặc là một từ dùng để gọi "dung nhan" của người khác một cách tôn trọng, kính cẩn; hay nói đến dung mạo xinh đẹp, làn da trắng; (còn có 1 ý chỉ hoa mơ nữa nhưng không liên quan trong truyện nha.)
8) Ô mạo (乌帽) hay ô sa mạo (烏紗帽): là mũ cánh chuồn hay còn gọi là mũ ô sa. Mũ cho quan lại thời phong kiến ở khu vực Á Đông, trong đó có Việt Nam.
9) Ti trúc cầm ngự (丝竹琴语): 丝 (Ti) chỉ tất cả các loại nhạc cụ có dây như đàn, hạc,... 竹 (Trúc): sáo, tiêu. 琴 (Cầm): đàn. Ý ở đây là đủ loại nhạc cụ hoà vang.
10) Trà trản hay chén trà, bát trà (茶盏): là dụng cụ dùng để uống trà, to hơn ly rượu, tách trà và nhỏ hơn chén ăn cơm. Các bằng chứng khảo cổ cho thấy, trà trản đã được sản xuất vào thời Đông Tấn (317-420), vào thời Minh - Thanh, mới có thêm nắp và dĩa, tạo thành cái oản trà (盖碗茶).
11) Kiếm tụ trường bào (剑袖长袍): Tụ là ống tay áo. Tụ kiếm là thiết kế phồng ở cánh tay và ôm ở cổ tay.
12) Hữu Kiêu Vệ tướng quân (右骁卫将军):
Năm thứ ba trong đại nghiệp của Tùy Dương Đế (607) đã đổi Hữu Bị Thân Phủ thành Hữu Kiêu Vệ, gồm có 2 người, hàng tam phẩm, phụ giúp đại tướng quân công việc ở tổng phủ. Vào thời nhà Đường, Hữu Kiêu Vệ tướng quân còn chưởng quản cấm vệ binh trong cung, phụ trách bố trí toàn bộ dực vệ của dực phủ và các cấp từ báo kỵ trở lên ở ngoài phủ. Chia binh canh giữ bốn cổng hoàng thành, cùng tả hữu vệ phân chia quản lý trong và ngoài cung thành.