Chiều hôm đó sau bữa cơm trưa, Mạnh cùng Chiêu Văn Vương lên xe ngựa đi về trang trại của Chiêu Văn. Thời Trần đã dùng chính sách “ Ngụ binh ư nông “ nên binh lính ở Gia trang của Chiêu Văn Vương thì vào mùa lúa thì dành một buổi làm ruộng, còn lại dành thời gian để luyện tập võ nghệ. Gia trang nằm ven hồ tây và giáp sông Hồng, Mạnh đoán chắc khoảng gần làng Ngũ xã bây giờ lúc này rất hoang sơ lên trang trại rất lớn. Vào đến cửa thấy có hai hàng lính canh phòng, thấy xe của Chiêu Văn Vương một viên tướng chạy ra đón. Chiêu Văn Vương giới thiệu với Mạnh viên tướng đó là Triệu Trung là người Tống đang thay mặt cho Vương Gia quản lý lính và công tượng người Tống ở trang trại này.Mạnh thi lễ chào.
-Chào tướng quân
Viên tướng đó cũng đáp lại. Thấy Mạnh nói tiếng Hoa khá trôi chảy thì Chiêu Văn Vương cũng ngạc nhiên, nhưng ông lại cho rằng có thể thầy của Mạnh là phái Quỷ cốc bên Trung Hoa tự nhiên Mạnh cũng biết tiếng Trung có điều âm của Mạnh hơi khó nghe. Được Triệu Trung dẫn đường hai người đi đến chỗ công tượng đang làm việc. Đến nơi Mạnh thấy có mấy lò rèn đang hoạt động, mấy người công tượng đang dùng búa gõ đập vật gì đó. Ở xa có mấy khẩu hỏa pháo bằng đồng, có một khẩu khá to dài tầm hơn ba mét, hình trụ đường kính đến gần 40 cm nặng cỡ nửa tấn đặt lên bệ bằng gỗ. Mạnh thầm nghĩ ngày xưa lịch sử có đoạn Thoát Hoan thua trận chui ống đồng để tránh tên độc của quân Đại Việt, mình cứ thắc mắc ống đồng ở đâu ra mà to thế, chắc là mang hỏa pháo sang lúc rút về mang theo bí quá thì chui vào đó thành sự tích Thoát Hoan chui ống đồng.
Thấy Vương Gia đến mấy người thợ, dừng công việc chắp tay để chào Vương Gia, Chiêu Văn Vương ra dấu chào lại. Ông gọi một người tầm hơn bốn mươi có lẽ là người phụ trách ở đây giới thiệu hai người với nhau.
-Đây là Chu Phàm phụ trách công tượng ở đây.
-Đây là thầy Mạnh học trò Quỷ Cốc tử, ta giao cho thầy Mạnh toàn quyền phụ trách công xưởng ở đây, các người phải phối hợp để thầy Mạnh sản xuất hỏa phảo mới cho Đại Việt. Kẻ nào không tuân theo sẽ bị ta t·rừng t·rị.
Cánh thợ chắp tay đồng thanh nói.
-Tuân lệnh Vương Gia.
Chiêu Văn Vương đến bên khẩu hỏa pháo lớn nhất và nói.
-Khẩu này chắc mới đúc đúng không. Ta muốn kiểm tra uy lực của nó.
Hai con ngựa được điều tới kéo khẩu pháo ra t·rường b·ắn. Trường bắn là một bãi cỏ khá rộng có đắp một bức tường đất cao khoảng hai mét, rộng ba mét. Đám công tượng để khẩu pháo cách bức tường năm trăm bước chân ( hai trăm năm mươi mét ). Sau khi nhồi thuốc súng một người nạp viên đạn đá vào nòng súng và châm ngòi.
-Oành một t·iếng n·ổ lớn, viên đạn bay đi rơi xuống đất sau đó nảy lên vài lần đập mạnh vào bước tường làm nó sụp một mảng.
Chiêu Văn Vương gật gù, hỏi thợ công tượng
-Có cách nào làm tăng tầm bắn nó gấp đôi không.
Mạnh đi lại gần nhìn vào trong nòng pháo, khẩu pháo còn khá nóng, anh dùng que khều thử thấy cặn thuốc súng trong pháo còn nhiều chứng tỏ nó chưa cháy hết. Đây chắc là công thức sơ khai ban đầu của thuốc súng làm nó đốt cháy không hết nên lực phóng quả đạn chưa cao, bắn xong phải làm sạch nòng súng khá mất thời gian. Anh phải bắt đầu cải tiến từ đây.
Đám thợ công tượng lắc đầu, nhiều lắm thì có thể thêm được trăm bước. Chiêu Văn Vương nói với Mạnh.
-Ta hy vọng cậu giúp ta tăng tầm bắn hỏa pháo gấp đôi, như vậy chúng ta mới có thể chống lại kỵ binh Mông Cổ.
Vương gia gật đầu, sau đó nói với
-Ta có việc phải về phủ trước, lát có người đưa thầy về. Thầy cứ ở đây làm việc có gì khó khăn thì báo với ta, ta sẽ toàn lực hỗ trợ.
Mạnh gật đầu nói
-Vương Gia cứ yên tâm tại hạ sẽ cố hết sức không phụ sự mong mỏi của ngài.
Vương gia tạm biệt mọi người rồi cùng đám người hộ tống đi về phủ. Nhìn đám người Vương Gia xa dần đi khuất khỏi tầm mắt, Mạnh quay sang nói với Chu Phàm.
-Phiền chú cho xem ta công thức chế tạo hỏa pháo trước.
Chu Phàm nhíu mày, nhưng không nói gì mời anh đi vào phòng làm việc của Công tượng. Đó là một căn nhà gạch, lợp ngói khá thoáng mát. Công tượng lấy giấy ghi công thức đưa anh. Mạnh nhìn dòng chữ Hán viết anh nhận ra tỷ lệ thuốc súng kali nitrat 75% lưu huỳnh 10% và than củi 15% đây là công thức sơ khai ban đầu. Đến thời Mạnh do chính phủ cấm đ·ốt p·háo nên hồi cấp ba có mấy lần cùng đám bạn vụng trộm làm pháo để đốt dịp Tết nên anh nhớ láng máng công thức thuốc pháo là 65% diêm tiêu 20% than và 15% lưu huỳnh. Tuy nhiên cần phải thử nghiệm nhiều để có công thức chuẩn vì lúc đó cũng là học sinh nên cũng chỉ cần pháo nổ to không để ý đến sức phá của pháo.
Mấy ngày sau, sau mấy lần mầy mò pha chế và nhồi vào các ống tre để thử uy lực pháo Mạnh cùng Chu Phàm và mấy công tượng suốt ngày thử thuốc nổ. Đám lính tập gần đó kháo nhau chắc nhà Vương Gia sắp có tiệc vui nên bên này chuẩn bị pháo. Lúc này Chu Phàm đang nhét ống tre vào bên dưới một tảng đá nặng ba mươi cân sau đó châm ngòi rồi chạy sau gốc cây đang có Mạnh lấp ở đó. Ầm ! t·iếng n·ổ làm Mạnh thấy ù tai, hai người chạy ra thấy viên đã vỡ một mảng to cỡ bát ô tô, Mạnh lắc đầu so với thuốc nổ cũ cũng không mạnh hơn bao nhiêu, chắc phải điều chế lại. Mấy hôm liên ngày nào đốt thử vài chục lần đến nỗi về nhà ù hết tai, mọi người nói chuyện anh nghe không rõ.
Vấn đề chính là các nguyên liệu chế tạo thuốc pháo cũng không tinh thuần nên cũng phải xử lý lại, cộng tỷ lệ phối trộn cũng chưa chính xác. Mặc dù dùng đến cân tiểu ly để cân đong từng loại nhưng thuốc vẫn chưa ưng ý. Nhiều hôm Mạnh ở lại đó cả đêm để cùng mọi người thử thuốc súng, có hôm đốt thử nhiều loại ra khỏi phòng mặt mũi ai cũng đen sì ám khói thuốc. Bận túi bụi suốt một tháng ai cũng căng thẳng, Mạnh cũng thường xuyên sử dụng trà Ulimate để giảm căng thẳng và cho một số người cùng làm việc với mình dùng. Ai cũng gọi là trà thần tiên vì làm giảm căng thẳng mệt mỏi dù nhiều hôm làm đến nửa đêm mới nghỉ.
Quyết định lọc và xử lý lại đám nguyên liệu để cho thuốc súng tinh thuần, nhưng khi lọc trong nước để loại cặn thì thuốc súng bị ẩm, lại phải rang lại. Hồi học sinh Mạnh từng rang thuốc pháo có lần vừa đứng lên thì chảo rang nổ lật tung cả bếp may không sao nên anh quyết định để đám thợ làm. Dù cẩn thận để chảo nóng rồi tắt bếp cho thuốc vào đảo nhưng t·ai n·ạn vẫn xảy ra với người thợ tên Giang, thuốc nổ làm anh mất một ngón tay, từ đó anh có biệt hiệu là Giang cụt.
Mạnh quyết định mua công thức từ hệ thống nhưng giá cao quá nên tiếc tiền, nếu nộp cây kiếm của Nhân Huệ Vương lấy điểm thưởng thì chắc đủ nhưng anh không nỡ bỏ mất cây kiếm quý. Mạnh định đến cuối tháng mà không được thì anh hy sinh cây kiếm để lấy công thức tạo thuốc súng. Hôm đó Mạnh lại mang hỏa pháo loại nhỏ ra t·rường b·ắn, anh cũng không nhớ là lần thứ bao nhiêu anh lại bắn thử, đợt này tiêu hao lưu huỳnh và diêm tiêu khá lớn nêm mới phải xin thêm kinh phí để nhập lần thứ ba làm quản gia cứ kêu đố tiền, may có ông Tùng hỗ trợ nên cũng nhanh chóng mua được đủ. Đầu tiên anh thử bắn hỏa pháo nồi thuốc nổ theo công thức thuốc súng cũ ở khoảng cách bảy trăm bước chân, đạn có chạm vào bức tường nhưng hết đà, bức tường chỉ hơi rung chứ không bị hư hỏng gì cả. Khi anh thay bằng thuốc nổ mới t·iếng n·ổ nhỏ hơn, khói ít hơn nhưng bức tường đã vỡ một mảng to.
Thành công rồi, Mạnh và mọi người reo lên. Các công tượng nhìn Mạnh trong ánh mắt họ không chỉ có niềm vui mà còn cả sự kính phục. Lúc đầu họ cũng coi thường vì nghĩ người Việt thường học làm đồ vật từ người Hoa, nên trình độ không bằng họ, nhưng Mạnh đã chứng minh điều ngược lại nên từ đó họ kính trọng Mạnh từ đáy lòng. Tối hôm đó Mạnh nhờ ông Tùng lấy hộ mấy vò rượu và anh chiêu đãi đám công tượng cùng món lẩu cá thuyển chài. Trời vào thu se lạnh món lẩu cá và rượu của anh đã làm đám công tượng người Hoa càng thêm quý anh, vì anh coi họ như bạn bè chứ không phải người làm dưới trướng của anh. Từ sau hôm đó anh trở thành người bạn thực sự của họ.