Vọng Nguyệt Lâu

Chương 59: Bên vua



Hâm Nhi cầm lấy một trang giấy nhìn một lát rồi lại cầm lấy một tờ khác, nhíu mày nói: “A Thắng, chữ này ngươi viết sai hết rồi.” Vừa nói cậu vừa ném giấy tới trước mặt Tạ Thắng. “Chữ doanh trong câu ‘trời đất không thể có hai doanh’ này, bộ ‘hựu’ toàn viết thành ‘nghệ"[1] hết rồi.”

[1] Chữ Doanh 盈, hựu 又 nghệ 乂.

Tạ Thắng đỏ mặt. Cha đã dặn dò không được nhắc tới vị nương nương kia ở trước mặt bất cứ kẻ nào. Cậu bé biết không nên giải thích, lặng lẽ vo tròn mấy tờ giấy rồi ném vào trong thùng sứ, ngẩng đầu một cái đã nhìn thấy đại trưởng công chúa Chân Ninh hung tợn đứng ở cửa nhìn cậu bé chằm chằm. Nàng ta chậm rãi khom lưng lấy một cục giấy, mở ra nhìn thoáng qua, ánh mắt lạnh lẽo lập tức chuyển tới mặt Tạ Thắng. “Cha ngươi đã nói cho ngươi điều gì?”

“Cha thần chưa nói gì cả.” Tạ Thắng thản nhiên trả lời. Lời này không giả dối chút nào, người nói cho cậu bé biết để mà tránh là Bạch công công. Hiển nhiên là Chân Ninh không tin, nhìn xuống đứa bé này mà không nói một lời, muốn dùng sự trầm mặc làm cho cậu bé khiếp đảm. Hâm Nhi nhìn thấy hết cử động của họ, cười hỏi: “Không phải cô sợ bị ta chọc cho tức chết ư, sao hết lần này tới lần khác cứ thích tới chỗ ta nổi giận thế?”

Chân Ninh nghĩ đến còn có chuyện đứng đắn, hừ lạnh một tiếng bỏ qua cho Tạ Thắng, nói: “Cuộc săn mùa hè đã được chuẩn bị kha khá rồi, mời bệ hạ quyết định thời gian. Cả danh sách những người đi theo cũng phải mau chóng làm cho xong.”

Vừa nghe đến cuộc săn mùa hè, hai mắt Hâm Nhi lập tức phát sáng. Chân Ninh vừa đi cậu bé bèn viết lia lịa trên giấy, chỉ chốc lát sau đã hoàn thành một tờ danh sách rồi đưa cho Tạ Thắng xem.

Tạ Thắng liếc thấy tên của mình thì vội vàng quỳ xuống tạ ơn vua. Cậu bé nhìn xuống một chút lại thấy tên của cha thì lấy làm lạ hỏi: “Bệ hạ muốn cha thần đi theo ư?” “Săn thú thì phải nhiều người mới náo nhiệt. Lệnh tôn vừa vất vả vừa có công lao lớn, lại hiếm khi có được một chuyến về kinh. Cha con hai người cùng đi mặc sức tiêu khiển một lần cũng coi như là tấm lòng của ta.” Hâm Nhi híp mắt nói, “Hôm nay ngươi về nhà nói cho hắn biết để sớm chuẩn bị đi.” Tạ Thắng mỉm cười không trả lời.

Hâm Nhi lo lắng không yên nói: “Có phải ngươi cho rằng người mà ta muốn mang đi không chắc chắn có thể thành công không?” Cậu liếc mắt nhìn thấy sắc mặt Tạ Thắng khó xử thì cười nói: “Yên tâm đi, lần này ắt sẽ theo ý của ta.”

Cây cung chạm trổ được vua ban cho khiến Tạ Thắng hưng phấn không thôi. Cậu bé lau đi lau lại, lại hỏi cha một lần nữa: “Cha ơi, cha đã tham gia săn bắn rồi đúng không? Có phải là rất kích thích không ạ?” Lần đầu tiên trả lời câu hỏi ấy, Tạ Chấn đã nói: “Quả thực làm người ta khó quên.” Lần thứ hai thì nói: “Thường có thu hoạch bất ngờ.” Lần này Tạ Chấn nhìn con trai bảo: “Săn bắn là hoạt động rất nguy hiểm.”

Tạ Thắng chớp chớp mắt, “Cha yên tâm đi, con sẽ không tham công cậy mạnh đâu.” Tạ Chấn chậm rãi gật đầu nói: “Bí quyết săn thú chỉ có một, trong mắt không thể chỉ có con mồi mà cũng phải nhìn về phía sau xem có thợ săn đang đuổi bắt con hay không.” Tạ Thắng há miệng, hơi mất hứng nói: “Cha à, con chỉ là một đứa bé thôi.”

Tạ Chấn sửng sốt, chợt mỉm cười vỗ vai cậu bé rồi nói: “Phải. Kinh nghiệm và niềm vui khi đi săn của con nên do con nói cho cha biết mới đúng.” Tạ Thắng nghe xong lời này thì nhếch miệng cười nói: “Con sẽ không khiến cha thất vọng đâu. Đây nhất định sẽ là một cuộc săn bắn rất tốt đẹp. Cha cảm thấy thế nào?”

“Cha?” Tạ Chấn nói một cách sâu xa: “Cha cũng rất chờ mong.”

Chân Ninh thử giương cung nhưng kéo một lần chưa thành công, thế là nhàm chán vứt cung sang một bên.

Lý Hoài Anh ở bên nhìn thấy bèn cười nói: “Điện hạ chưa bao giờ là một người biết dùng vũ lực.” Chân Ninh bĩu môi: “Thời thịnh trị thái bình thì cung treo tường, kiếm tra vỏ, tôi cũng chỉ lười biếng một chút mà thôi.”

“Nếu điện hạ đã không bắn được một mũi tên thì tại sao còn muốn đi góp vui chứ?” Hình như Lý Hoài Anh có điều bận lòng, khuyên nhủ: “Điện hạ nên biết trong khu vực săn bắn tàn sát khốc liệt cỡ nào.” Chân Ninh thấy y nói một cách ân cần thì không khỏi chậm rãi mỉm cười: “Đại nhân không cần phải lo lắng. Tôi tự có sự chuẩn bị vẹn toàn.”

Lý Hoài Anh nói đùa: “Thật sự vẹn toàn ư?” Nét mặt Chân Ninh giận tái đi, hất cung bạc xuống mặt đất nói: “Nếu đại nhân không yên lòng thì xin mời đại nhân sắp xếp cẩn thận một lần nữa giúp tôi.” Lý Hoài Anh thấy nàng ta hiểu nhầm bèn vội vàng nói: “Hạ quan hoàn toàn không có ý này. Thân phận điện hạ cao quý, ngộ nhỡ vì khinh thường mà có sơ xuất thì chẳng phải làm người ta thổn thức hay sao?”

Chân Ninh cảm thấy Hoài Anh châm biếm mình, cười lạnh nói: “Tôi vốn chỉ là một kẻ kiêu căng. Ai có lòng tìm sự sơ xuất của tôi thì cứ việc tới thử xem đi!” Lý Hoài Anh biết rõ nàng ta nóng tính như vậy nên sau đó không chọc giận nàng ta nữa mà nhắc tới cảnh đẹp nơi đồng hoang lúc này để nàng ta phân tâm.

Một lát sau Chân Ninh tự biết đuối lý, than thở: “Người ta thường nói quân tử có thể nhẫn nhịn sự châm biếm trước mặt. Đại nhân khong dung cho tôi nhiều năm như vậy, quả là một người quân tử thực thụ. Cả đời này tôi cũng không sao trở thành quân tử được. Liệu đại nhân có xem thường tôi chăng?” Lý Hoài Anh kinh ngạc nói: “Điện hạ có thể nói là người hiếm thấy trong số phụ nữ, đương thời có ai dám khinh thường?” Y nhìn Chân Ninh cười, còn nói: “Mấy năm nay trong số chấn động mà thiên hạ cảm nhận được, không có cái nào mà không đến từ dũng khí và ý chí hơn người của điện hạ.”

Nghe y nói thành khẩn như thế, Chân Ninh cũng tự biết lời ấy không hề giả tạo nên lẳng lặng lộ ra nụ cười tự tin, “Vậy thầy cứ tiếp tục nhìn đi!”

Thời gian đi săn mùa hè được quyết định vào ngày đầu tiên của tháng Sáu. Tạ Thắng thấy mưa to mấy ngày liền, cho rằng lần này nhất định không đi được, ngờ đâu trước khi đi trời đẹp toả ánh sáng rực rỡ. Trên bầu trời xanh lam có vài áng mây trôi tùy ý, sắc lam trong suốt, màu trắng không bì kịp làm tinh thần người ta vì đó mà phấn chấn. Mặc dù nơi đóng quân hơi lầy lội nhưng hứng thú của Hâm Nhi không hề giảm bớt, nghỉ ngơi một ngày rồi thúc giục mọi người mau mau hành động. Chân Ninh nhẫn nại giải thích với cậu: “Khu vực săn bắn này rất rộng lớn, phía tây nối tiếp thảo nguyên Đằng Hà, hướng nam là hồ Tái Nguyệt, núi non phía bắc là chốn mà tiên đế yêu thích nhất, trong rừng rậm phương đông có chim muông đếm không xuể.”

Hâm Nhi quất roi một cái tràn đầy khí phách: “Ta vào trong rừng bắn chim, bắt sống được còn có thể mang về cung giải sầu.” Chân Ninh khinh miệt quét mắt nhìn cậu một cái, nói: “Xin bệ hạ cứ tự nhiên. Thiếp muốn thử vận may xem có thể gặp huơu và sói không.”

Hâm Nhi vẫy tay với Tạ Thắng: “Đi, chúng ta đi tìm con chim hót hay.”

Tạ Thắng vốn định theo cha đuổi bắt con mồi có tính khiêu chiến hơn, lúc vâng theo lời dặn của Hâm Nhi thì còn có chút thất vọng, nhưng không biết sao cậu bé lại nhớ tới vị nương nương nghe tiếng dế kêu trong điện thờ phụ vắng vẻ. Nếu như có thể tặng cho nàng một con chim hót hay, không phải sẽ tốt hơn dế sao? “Ngươi theo sát ta vào.” Hâm Nhi lén lút nói bên tai Tạ Thắng: “Theo sát đấy.”

Thấy cậu coi trọng như thế, Tạ Thắng vui mừng gật đầu thật mạnh. Hai cậu thiếu niên hết lòng tin rằng chim hay ở rừng sâu, mang theo tùy tùng tiến vào chỗ cỏ cao rừng rậm. Không biết đã đi bao xa, Tạ Thắng nghe một chuỗi tiếng véo von du dương lạ thường, trong lòng rất vui vẻ lấy một mũi tên ra tìm bốn phía. Nhưng âm thanh tuyệt vời đó không ở lại mà tung bay thẳng vào càng sâu bên trong rừng. Tạ Thắng cầm lấy cung tên ngẩng đầu quan sát, hai chân ghìm ngựa chậm rãi đi về phía trước. Nhưng tiếng hót im bặt thật lâu, đột nhiên sau một hồi tiếng vỗ cánh thì không thấy bóng dáng con chim nào cả.

Tạ Thắng thất vọng rũ cánh tay xuống, nhìn phía sau thì không khỏi kinh hãi: Không biết các tùy tòng đã đi đâu, đi cùng bên cạnh cậu bé lại chỉ còn một mình hoàng đế. Cậu bé cuống quýt khom người ở trên ngựa nói: “Thần không nén được sợ hãi…”

Hâm Nhi dùng tay ra hiệu ý bảo cậu bé yên lặng lắng nghe. Tiếng kêu và tiếng vỗ cánh hết đợt này đến đợt khác làm rối loạn sự tĩnh mịch của rừng cây, như thể mỗi con chim trong tổ cùng bị dọa. “Xảy ra chuyện gì vậy?” Tạ Thắng đột nhiên cả kinh, lắp tên theo bản năng, “Xin bệ hạ ra phía sau thần. Có lẽ là một con chim lớn.”

“Còn đáng sợ hơn cả con chim lớn đấy.” Hâm Nhi dường như đã biết là cái gì, mỉm cười nói: “Ngươi nghe tiếp đi.”

Sau khi đàn chim huyên náo thì trong rừng có một khoảnh khắc vắng lặng, thế nhưng Tạ Thắng lại lập tức nghe thấy tiếng chân và tiếng ngựa hí ầm ĩ. “Đi xuống!” Hâm Nhi nói, “Đừng để người khác thấy ngươi.” Tạ Thắng nhanh chóng làm theo lời dặn của cậu, núp ở sau ngựa. Cây cối và dây leo đan xen nhau có ý tốt che giấu thân người hai đứa bé. Xuyên qua lá cây, họ thấy một con ngựa hoảng sợ đang chở một bóng đỏ gập ghềnh xông tới ở giữa cây cối, rõ ràng đã lạc mất phương hướng.

Tạ Thắng kinh hãi phát hiện kẻ chật vật không chịu nổi đó chính là đại trưởng công chúa Chân Ninh thường ngày cao ngạo không thể với tới, cậu bé vừa định lên tiếng gọi nàng ta thì miệng đã bị Hâm Nhi bịt lại. Vài tiếng vù vù, vô số mũi tên nhọn đuổi theo bóng lưng Chân Ninh nhưng lại bỏ lỡ mục tiêu, găm lên cây. Những mũi tên kia đâm sâu vào gỗ, có thể thấy trên mỗi một mũi đều mang theo ý muốn ắt phải giết chết. Đến lúc này không cần Hâm Nhi bịt chặt miệng thì Tạ Thắng cũng đã không phát ra được âm thanh nào rồi.

Con ngựa mà Chân Ninh cưỡi hí lên một tiếng đau đớn rồi ngã xuống đất, thân người màu đỏ của nàng ta bị quăng vào trong bụi cỏ. Tạ Thắng không trông thấy nàng, lại nhìn thấy vài tên đàn ông mặc quần áo thị vệ chạy tới, quơ đao chém vào trong cỏ. Tạ Thắng nhìn thấy trên ngọn cỏ lộ ra một thanh đoản đao, kháng cự ‘leng keng’ vài cái, sau khi va chạm tạo ra mấy đóa hoa lửa yếu ớt thì cuối cùng không chống đỡ nổi nữa. Những thị vệ kia tạo thành một vòng, đâm một loạt bội đao xuống phía dưới…

Lúc này mắt Tạ Thắng bị tay Hâm Nhi che lại.

“Đừng nhìn.” Hâm Nhi hờ hững bình tĩnh nói: “Không có cái gì đẹp hết.” “Bệ hạ cũng đừng nhìn.” Tạ Thắng hết hồn đưa tay che hai mắt Hâm Nhi, lại bị cậu lạnh lùng đẩy ra.

“Ta đã nói từ lâu rồi, thật sự bị ta làm cho tức chết lại là phúc của người đấy.” Hâm Nhi xuất thần đưa mắt nhìn hiện trường giết người, nói: “Bây giờ, lúc người phụ nữ có địa vị tối cao trong sắp chết chẳng qua chỉ là cảnh tượng thảm hại đáng buồn như thế mà thôi.”

“Người đã chết thật rồi ư?” Tạ Thắng dường như đặt mình trong mộng, hỏi như nói mê: “Không một tiếng mà đã chết rồi sao?” Không có tiếng kêu thảm thiết tan nát cõi lòng, cũng không có lời nguyền rủa độc ác đối với hung thủ. Đại trưởng công chúa Chân Ninh ngông cuồng kiêu ngạo, có thù tất báo mà lại có thể chết đi một cách bất lực như vậy sao? Cậu bé không thể tin nổi, luôn cảm thấy đây chỉ là một màn kịch, công chúa Chân Ninh đi vào đó diễn xong phần của nàng ta thì sẽ nhảy lên khỏi cỏ, tát vào mặt những kẻ sắm vai thị vệ này rồi hung ác răn dạy bọn họ diễn quá thật…

“Cô cũng chỉ là một con người thôi.” Hâm Nhi thấy những thị vệ mặc quần áo nhuốm máu kia lui lại thật nhanh thì nói với Tạ Thắng: “Giờ thì đi xem chỗ cha ngươi thế nào rồi.” “Cha thần?” Tạ Thắng càng chẳng hiểu ra sao.

“Lẽ nào ngươi không biết?” Hâm Nhi vừa nhảy lên ngựa dưới sự giúp đỡ của Tạ Thắng, vừa nói: “Trong đó có hai người là Duệ tướng quân và Tố tướng quân cùng về kinh với cha ngươi đấy.”

Tạ Thắng thật không ngờ vụ giết người ấy lại liên lụy đến cha, vội vàng nói với Hâm Nhi: “Bệ hạ, cha thần chắc chắn sẽ không làm ra chuyện đại nghịch bất đạo như vậy.” Hâm Nhi nhìn cậu bé cười, không nói gì nữa.

Lúc Tạ Thắng nhanh chóng trở lại nơi đóng quân tìm cha khắp nơi, cũng có người đang tìm cậu bé. Tạ Thắng vừa mới lao ra khỏi căn lều không một bóng người của cha thì đã bị người ta kéo lại. “Đại nhân vẫn nhận ra hạ quan chứ?” Người nọ vội vã hỏi.

Tạ Thắng gật đầu: “Ngài là phó tướng của đại tướng quân, đúng không?” Người nọ gần như kéo Tạ Thắng vừa đi về trước vừa nói: “Hạ quan họ Tố, xuất thân từ họ Tố Nam An. Mời đại nhân lập tức đi theo hạ quan một chuyến, sự việc liên quan đến an nguy của đại tướng quân, vô cùng khẩn cấp.”

“Cha tôi đã xảy ra chuyện gì?” Tạ Thắng dừng bước lại, bắt lấy cổ tay Tố tướng quân lớn tiếng quát hỏi. Tố tướng quân không kéo được cậu bé, hoảng sợ nói: “Giờ đại tướng quân bình yên vô sự, nhưng nếu như đại nhân không ra mặt thì con đường phía trước khó mà chịu nổi.” Tạ Thắng lại hỏi: “Ngài muốn tôi đi đâu?” Tố tướng quân trả lời: “Một nơi mà đại nhân từng tới, cưỡi ngựa chừng một canh giờ là có thể đến. Chỉ khi đại nhân gặp vị kia thì đại tướng quân mới có thể vô lo.”

Tạ Thắng càng khó hiểu, hình như ngày hôm nay có rất nhiều chuyện không hề liên quan mảy may đến việc săn thú làm cho cậu bé không kịp chuẩn bị. “Vị kia? Ai cơ?” “Thời gian cấp bách, mời đại nhân lên ngựa rồi vừa đi vừa nói chuyện.”

Tạ Thắng muốn dặn tùy tùng vài câu, Tố tướng quân lại khoát tay lia lịa nói: “Việc này tạm không thể tiết lộ ra ngoài. Hạ quan hoàn toàn không có lòng làm lại đại nhân, xin đại nhân chớ đa nghi.” Tạ Thắng nghe xong lời này thì hơi không bằng lòng, không ngừng quay đầu ngó chung quanh: “Cha tôi ở đâu? Sao cha không tự mình nói với tôi những điều này?”

Tố tướng quân mang theo nụ cười khác thường, nói: “Đại tướng quân đang đi săn.” Gã không nói gì nữa đã đẩy Tạ Thắng lên ngựa.

Đó là một con ngựa giỏi cao lớn, Tạ Thắng thật không ngờ một con ngựa có thể chạy mau như vậy. Thuật cưỡi ngựa của cậu bé tệ hại bị xóc cho khổ không thể tả, cộng thêm gió táp vào mặt ngăn cản hô hấp, cả đường khổ không gì sánh được. Tuy Tố tướng quân bằng lòng giải thích cho cậu bé, nhưng dọc đường chạy một cách khẩn trương, hoàn toàn không nói được một lời. Cuối cùng khi gã nói ra bốn chữ “có thể thấy rồi”, Tạ Thắng “yi” một tiếng, cảm thấy nơi đây rất quen. Kiến trúc không thể coi là mới tinh, nhưng có thể nhìn ra được có vết tích thường xuyên sửa chữa. Mây trắng tựa như dải lụa dập dờn ở trên không, chia cắt bầu trời thành một cánh cửa sổ nơi ngục tù. Sự tĩnh mịch của nơi này luôn khiến người khác cảm thấy quá trang nghiêm, không cất giấu sức sống giống như trong cung.

Tạ Thắng đã nghĩ ra mình từng tới từ bao giờ. “Chúng ta tới tìm ai?” Lúc nhảy xuống ngựa cậu bé hỏi. Tố tướng quân thấp giọng nói: “Thất lễ!” rồi kéo tay Tạ Thắng sải bước ven theo đường chính. Lần này Tạ Thắng gặp được vệ binh canh giữ bên ngoài tòa cung điện này, bọn họ khẩn trương đứng ở dưới cửa núi, mở to mắt nhìn Tạ Thắng và Tố tướng quân đi vào. Giữa tam điện, Bạch công công đang chỉ huy một hoạn quan trẻ tuổi quét tước đình viện, thấy hai vị khách hiếm thấy mình đầy gió bụi thì không khỏi ngẩn ngơ, lập tức chặn ở trước mặt bọn họ mắng: “Lớn mật! Lẽ nào các người không biết tự tiện vào nơi đây là vi phạm luật hình à? Lại còn mang theo cung tên đao kiếm!”

Tạ Thắng sợ hết hồn, đứng tại chỗ như trời trồng. Cậu không tài nào nghĩ ra nơi lần trước tới lui tự nhiên lại chính là một cấm địa.

Tố tướng quân quỳ xuống không chút do dự, gần như quát to: “Hạ quan cầu kiến thái hoàng thái phi!” Một tiếng quát to như sét đánh khiến Tạ Thắng và Bạch công công đều sợ ngây người. Hình như sợ tiếng của mình không đủ chấn động nên gã lại hô to một lần nữa. Bạch công công đổ đầy mồ hôi lạnh, cũng cất cao giọng: “Ngươi đang nói bậy gì đấy?”

Cửa điện bị một cánh tay nhã nhặn mở ra, Tạ Thắng thấy vị nương nương kia mặc quần áo bình thường màu xanh đậm xuất hiện ở trước cửa son. Thoạt nhìn thì nàng ở dưới ánh mặt trời hơi khác so với đêm hôm đó, gương mặt xinh đẹp nhỏ nhắn tái nhợt và vóc người mảnh khảnh thoạt nhìn càng thêm yếu đuối. Nhưng thái độ của nàng trầm tĩnh, giống hệt như đêm ấy. Xem ra trên đời này quả thật không còn chuyện gì khiến nàng động lòng được nữa.

Nàng không nhìn Tạ Thắng mà quan sát Tố tướng quân rồi thản nhiên nói: “Anh là ai? Lại dám chạy đến nơi đây nói xằng nói bậy.”

Tố tướng quân quỳ mấy bước rồi phủ phục trên mặt đất, “Bẩm nương nương, Chân Ninh đã chết. Thần cung nghênh nương nương về cung chủ trì đại cục.”

Tố Doanh lặng lẽ đứng yên không động đậy, nét mặt vẫn chưa thay đổi vì tin Chân Ninh qua đời. “Ta không biết vị thái hoàng thái phi mà anh nói đến ở đâu.” Nàng nói xong thì xoay người muốn trở về.

“Nương nương!” Tố tướng quân vội vàng lên tiếng cản lại: “Tính mạng của Tạ đại tướng quân đang ở trong một suy nghĩ của nương nương!”

Thấy lưng Tố Doanh cứng đờ bất động, Tố tướng quân lại nói sang sảng: “Nương nương có biết đại tướng quân chính là công thần quét sạch phe cánh gian thần của Chân Ninh, đón ngài về làm chủ cung đình. Nếu như nương nương khoanh tay đứng nhìn, khiến lợi ích thực tế rơi vào tay người ngoài thì có lẽ đại tướng quân sẽ bị coi là kẻ có tội ám sát đại trưởng công chúa. Chắc trong lòng nương nương hiểu rõ đây là loại tội gì. Nương nương muốn tận mắt thấy đứa bé thơ như vậy trở thành không chỗ nương tựa, rơi xuống hoàn cảnh đáng buồn ư?” Gã nói rồi bắt lấy Tạ Thắng bên cạnh, vội vàng nói: “Đại nhân, mau năn nỉ vị nương nương này về cung vì cha ngài đi!”

Tố Doanh đưa lưng về phía họ, cánh tay dùng sức nắm lấy cửa. “Trước khi hành động thế này, cha nó có nghĩ tới bọn ta ư?” Tiếng nàng hết sức bất mãn: “Điều hắn có thể nghĩ tới chỉ là giết Chân Ninh rồi để ta tới dàn xếp phía sau?”

Tố tướng quân nghe nàng nói lời đoạn tuyệt thì cắn răng, rút thanh đao ở thắt lưng ra đánh keng một cái rồi chống xuống mặt đất, nói: “Nương nương là người mà đại tướng quân nhớ mãi không quên, thật không ngờ lại tuyệt tình tới vậy… Nếu tại hạ khó thoát khỏi cái chết thì dù có gánh tội danh phạm thượng cũng phải đắc tội nương nương rồi!” Dứt lời gã giơ đao đánh về phía Tố Doanh. Tạ Thắng thấy gã quyết tâm, không biết sao chân mình lại đột nhiên nhanh nhẹn thế, đưa hai cánh tay ra ngăn cản phía trước Tố Doanh. Có điều hiển nhiên đã làm điều thừa, Bạch công công giơ cây chổi dài trong tay lên nhanh hơn cậu bé, dùng chuôi đánh một cái vào cổ tay Tố tướng quân. Kích ấy vừa ác vừa chuẩn, tay Tố tướng quân mềm oặt ra, đao kia bèn rớt xuống đất.

“Con…” Tố Doanh hơi bất ngờ, đưa tay đặt ở trên vai Tạ Thắng, muốn cảm ơn cậu bé vừa muốn khen ngợi cậu, nhưng cuối cùng lắc đầu nói: “Gã chỉ muốn cưỡng ép bắt ta trở lại kinh thành, sẽ không làm tổn thương ta đâu.”

“Nhưng làm sao người biết được chứ?” Lúc này Tạ Thắng mới thấy sợ, thân thể hơi run rẩy. Điều khiến cậu bé thán phục là: Vị nương nương này không hề hoảng loạn một mảy may.

“Giết chết ta không chỉ khiến họ mất đi vị thái hoàng thái phi trong ảo tưởng mà còn có thể làm tội danh phạm thượng tác loạn của họ càng được xác thực.” Tố Doanh an nhàn nói, “Gã được cha con gửi gắm trách nhiệm nặng nề thì ắt không phải kẻ không biết đạo lý này.”

“Nương nương sẽ trở về ạ?” Tạ Thắng mở to hai mắt ngước nhìn người phụ nữ này, cậu bé đã không biết nên nói nàng thần kỳ hay nên nói nàng không có cảm xúc. “Con không tin cha con lại tham dự loại tội nghiệt này. Thánh thượng thông minh như thế ắt sẽ điều tra rõ chân tướng, ngài sẽ không làm khó cha con. Cho dù nương nương không làm theo lời Tố tướng quân, cha con cũng sẽ bình an vô sự.” Cậu bé thành khẩn nói: “Nếu như nương nương trở về thì không nghe được tiếng dế kêu ở đây nữa.”

Tố Doanh bỗng cảm thấy chua xót trong lòng, chậm rãi ngồi xổm người xuống, nhìn thẳng vào mắt cậu bé và nói: “Nhưng từ hôm nay trở đi, ta đã không thể ở lại chốn này nữa, nhất định phải trở về rồi.”

Tạ Thắng khó hiểu: “Tại sao ạ? Rõ ràng nương nương không muốn, không phải sao?”

Tố Doanh xoa đầu cậu bé, thấy vết thương sau gáy cậu đã khép lại kha khá rồi thì trên mặt có nụ cười vui mừng: “Từ từ rồi con sẽ tỏ tường.”

Nàng đứng dậy, nói với Tố tướng quân đang khoanh tay quỳ: “Bảo đồng bọn của anh tới nghênh giá đi. Lăng vệ là người mà Chân Ninh tự mình sắp xếp, anh phải tự mình nghĩ cách giải quyết.”

Tố tướng quân mừng rỡ nói: “Nương nương anh minh. Việc lăng vệ không cần nương nương lo lắng.” Dứt lời gã lấy cái cung mạnh ở sau lưng xuống, bắn ra ba mũi tên mờ ám lên trời. Sau một tiếng sắc nhọn như xé trời, trong sự yên tĩnh của đất trời vang lên tiếng sấm dậy vô cùng kín đáo. Rất nhanh, một đội xe ngựa đường hoàng chỉnh tề tiến quân thần tốc, dường như bật tung ra từ dưới đất vậy, nhưng lại giống như sợ hãi gì đó nên đứng ở dưới cửa núi hùng vĩ đẹp đẽ chứ không tiến thêm nữa. Tạ Thắng trông thấy thì ngây người ra. Tố Doanh nhắm mắt lại niệm tiếng “tội lỗi”, nói với Tố tướng quân: “Vì nghênh đón thiếp mà dùng nghi trượng như thế đặt chân vào cấm địa, làm mất hết lễ bề tôi. Thiếp phải thỉnh tội với tiên đế mới có thể đi được.”

Sự ngạc nhiên trong hôm nay của Tạ Thắng đạt đến đỉnh điểm vào lúc này. Khi Tố tướng quân nói “thái hoàng thái phi”, cậu bé đã đoán được thân phận của vị nương nương này. Nhưng cậu bé không nghĩ tới nơi đây còn có một vị “tiên đế”.

Tố Doanh phát hiện vẻ mặt cậu bé thay đổi thì hỏi: “Sao vậy? Đại nhân không biết đây là đâu à?”

Tạ Thắng không nói nên lời, chỉ có thể lắc đầu thật mạnh. Vẻ mặt Tố Doanh có chút buồn bã, nói: “Nơi đây chính là lăng tẩm của hoàng đế Thiên Hựu chí thánh chí minh. Thiếp là Huệ phi Tố thị của hoàng đế Chiêu Thánh.”

Tạ Thắng bừng tỉnh: Chẳng trách hai lần gặp nàng thì nàng đều ở yên trong điện thờ phụ. Thì ra đó chỗ chính điện đóng chặt là một nơi không cho phép chuẩn bị đãi khách làm quấy rầy linh hồn. Tạ Thắng một mực cung kính quỳ gối hướng về điện của tiên hoàng, nhìn theo hướng đi chậm rãi của nàng. Bỗng nhiên, nàng quay đầu vẫy tay với cậu bé, nói: “Con tới đây!” Tim Tạ Thắng đập thình thịch, run giọng nói: “Thần không dám…” Ngoại trừ người hầu hạ linh cữu người quá cố thì chỉ có con trai hoàng gia được cho phép mới có thể bước vào chính điện trong lăng tẩm của tiên đế, sao cậu bé dám theo sau chứ? Chỉ nói ra suy nghĩ này thôi đã bất kính rồi. Nhưng Tố Doanh kiên định mỉm cười nói: “Đến đây đi!” Cậu bé đành lo sợ theo sát phía sau nàng, cùng nàng quỳ gối bên ngoài chính điện, trịnh trọng dập đầu.

Tố Doanh quỳ thật lâu dưới đất mãi không đứng dậy, có lẽ đang lặng lẽ giải thích cái gì trong lòng. Tố tướng quân đợi đến sốt ruột, thúc giục: “Mời nương nương lên đường đi thôi.” Tạ Thắng cảm thấy gã quá bất kính với tiên đế nên biểu thị trên mặt. Tố Doanh quay đầu thấy biểu cảm của cậu bé thì cười nói: “Nơi đây có lẽ chỉ có trong mắt hai ta là còn tiên đế.”

Nàng kéo lấy tay Tạ Thắng đi ra phía ngoài, sự sủng ái này làm cho đứa bé không biết làm sao nhưng không hề khiến người khác kinh ngạc.

Bọn họ thấy một lời ám chỉ rất tốt từ trong bức tranh này: Tố Doanh sẽ tin tưởng mù quáng và ỷ lại vào cha con họ Tạ đón nàng về cung, đại tướng quân mà họ đi theo ắt sẽ lại dẫn họ vào một sự thắng lợi.