Vùng Đất Vô Hình

Chương 69: Chương 69



Đưa Du bộ đầu đi rồi, anh Ba Kho trở về nhà đánh một giấc. Đêm qua anh không ngủ đủ giấc, cả ngày nay cũng mệt mỏi nên vừa đặt lưng xuống sàn là anh ngáy như sấm. Thấy anh Ba Kho ngủ say, nhà anh cũng không ai đánh thức anh dậy ăn cơm tối. Thế là anh ngủ thỏa thích, cho đến khi cơn đói cồn cào trong ruột quấy nhiễu.
Anh Ba Kho trở dậy. Trong nhà tối om om làm anh cũng chả biết lúc này là mấy giờ rồi, chỉ biết đêm đã khuya lắm. Anh vớ lấy cái đèn cầy bên giường, châm lửa lên. Bên cạnh anh, vợ anh vẫn còn đang say giấc nồng. Anh vén chăn, đắp lên cho vợ, rồi rón rén đi xuống giường. Mò mãi mới thấy đôi dép, anh xỏ vào rồi cầm cây đèn cầy đi ra phòng ngoài. Nhà anh cũng không rộng lắm, ngoài phòng khách và phòng ngủ của vợ chồng anh thì chỉ có thêm hai gian. Một gian làm kho đựng thóc còn một gian là phòng ngủ cho hai đứa con. Anh Ba Kho tháo then cửa, bước ra sân. Một mùi hương quen thuộc phả vào mũi khiến anh cảm thấy thoải mái. Đó là hỗn hợp của mùi rơm rạ, mùi hàng xoan đầu ngõ, mùi hương hoa bưởi trong vườn và vô số những hương vị mà anh chẳng nhớ nổi.
Anh Ba Kho vươn vai, duỗi người khiến từng khớp xương kêu lên răng rắc. Anh cảm thấy sự hôi thối, bẩn thỉu và mệt mỏi ngày hôm qua như biến đâu mất. Anh quay người hướng xướng bếp. Căn bếp nằm vuông góc với nhà chính, ngay bên sân. Căn bếp mặc dù không cao ráo như trên nhà, nhưng cũng khá sạch sẽ. Anh Ba Kho dễ dàng tìm thấy nồi cơm nguội, nồi cá tràu kho được úp lồng bàn cẩn thận. Vì sợ chuột vợ anh còn đè cả cái thớt gỗ lên. Anh Ba Kho đốt bếp lên rồi hâm lại nồi cá. Cơm nguội chan nước cá kho nóng hổi thì khỏi chê vào đâu được.
Trong lúc chờ nồi cá sôi lên, anh Ba Kho mở tủ chạn, lôi ra chai rượu nếp mà anh đã giấu kỹ trong góc. Anh mở nút lá chuối, hít hít hà hà, rồi rót ra một bát đầy. Bình thường chả bao giờ anh uống rượu một mình thế nhưng hôm nay là ngoại lệ. Cá sôi rồi anh nhấc nồi cái ra mâm. Cũng chẳng thèm bát đũa gì, anh ăn bằng cái thìa ngay trong nồi luôn. Cơm nguội ngắt được chan nước kho cá lên bắt đầu tỏa hương thơm. Hạt gạo bắt đầu mềm ra, vừa khô vừa dẻo, nhai trong miệng thật dính, thật bùi. Thêm vào đó vị nước cá kho mặn mặn ngọt ngọt khiến anh ăn đến đâu biết đến đấy.

Anh xúc lấy một khoanh cá tràu, đưa lên miệng cắn một miếng. Cá mềm, thịt dai như thịt gà, đượm vị tiêu và mắm. Anh nhấp một hớp rượu, khà một tiếng đầy thỏa mãn. Chả mấy chốc mà nồi cơm hết veo. Nồi cá kho cũng chỉ còn phân nửa. Anh Ba Kho ợ một tiếng, đậy nồi cá lại cẩn thận rồi vỗ vỗ bụng bước ra sân. Anh vác cái chõng tre ra trước sân, tháo cái điếu treo trên cửa sổ xuống, tiện tay vơ lấy ấm trà. Trời hôm nay lắm mây, chả có trăng sao gì khiến khoảng sân rộng cứ tối om om. Anh Ba Kho ngồi gác một chân lên chõng, dứt ít thuốc lào trong bao ra rồi ve lại. Xong anh nạp thuốc vào, châm đóm, rít một hơi thật sâu. Xong anh bắt đầu nhả khói, đôi mắt lờ đờ có vẻ sáng khoái lắm. Anh Ba Kho đang run run tay cầm cái chén trà lên thì một cơn gió lạnh làm anh rùng mình. Chén trà trong tay anh rơi độp xuống chõng, nước trà đổ ra dính cả vào quần. Anh Ba Kho tức giận chửi thề một câu rồi đứng lên đi vào nhà lấy giẻ lau. Nhưng vừa bước chân vào cửa thì anh bỗng ngửi thấy cái mùi ngai ngái khó chịu.
Vì trong mũi trong miệng con dư vị của thuốc lào nên anh Ba Kho không nhận nổi cái mùi hôi đó là mùi gì. Anh bước vào trong nhà, tìm mãi mới thấy cái dẻ lau. Trong nhà tối quá làm anh đá phải cái bô đựng rác, may mà nó không đổ ra. Anh Ba Kho gạt cái bô xuống dưới ghế, mò mẫm lấy đại cái áo của vợ treo trên tường để ra làm gối. Vừa ra cửa thì cái mùi thối lúc nãy lại xuất hiện. Anh Ba Kho khịt khịt mũi, ra sân lấy cái đèn cầy. Anh bắt đầu dò theo cái mùi đó. “Chắc lại có con chuột nào chết đây.” Anh Ba Kho nghĩ vậy. Anh Ba Kho đi một vòng quanh nhà mới phát hiện mùi thối đó bắt nguồn từ chính căn phòng ngủ của vợ chồng anh. Vào nhà rồi, sợ đánh thức vợ, anh đi rất nhẹ. Đến bên giường, cái mùi thồi đó nồng nặc khiến anh phải bịt mũi lại.
Quái thối thế mà vợ anh vẫn ngủ được. Anh Ba Kho nghĩ bụng rồi bắt đầu soi đèn xuồng dưới gầm giường. Gầm giường rất sạch, chả có mạng nhện hay bụi bặm gì. Cũng phải thôi, vợ anh vốn tính sạch sẽ nên quét dọn thường xuyên. Anh Ba Kho kéo chiếc rương gỗ đựng bát đũa ra. Chiếc rương này là của hồi môn của vợ. Bát đũa trong này ngoài dịp lễ tết thì chả bao giờ dùng đến. Anh Ba Kho mở chiếc rương ra. Bên trong bát đũa xếp một cách gọn ghẽ và cẩn thận, lại sạch sẽ không có lấy một hạt bụi. Quái, thế mùi thối từ đâu ra? Anh Ba Kho tò mò. Trên giường, vợ anh vẫn ngủ ngon. Nghĩ nghĩ một lúc, anh Ba Kho lay vợ. “Mẹ nó ơi, mẹ nó.” Vợ anh không trả lời. Anh Ba Kho lại lay lần nữa. Vợ anh vẫn không hè động đậy.
“Ngủ gì mà say thế không biết.” Anh Ba Kho hơi bực mình, kéo luôn cái chăn vợ anh đang trùm. Rồi anh ngã ngửa ra, trên khuôn mặt không còn một giọt máu. Vợ anh đã biến thành cái một xác từ lúc nào. Đặc biệt nhất là thân thể nàng như bị ngâm nước nhiều ngày, phình lên, trắng ởn, hôi thối khủng khiếp.

*******************
Hồ Kinh Dạ vẫn mênh mông sóng vỗ. Trên thuyền chú Miên đang hăng hái kể chuyện, Minh Khánh thì nghe một cách say sưa. Tám tuổi là cái tuổi đầy tò mò và khao khát tìm hiểu những điều mới lạ. Mặc dù câu chuyện của chú Miên hơi ghê rợn, nhưng với Minh Khánh, nó cũng chỉ như những câu chuyện cổ tích thôi, thậm chí có phần gay cấn và hấp dẫn hơn. Tiếng vẫy nước cắt đứt câu chuyện của chú Miên. Sư phụ Văn Sơn từ dưới mặt hồ nổi lên, khuôn mặt ông có vẻ vui. Ông vuốt vuốt nước trên mặt rồi cười với chú Miên: “Tìm thấy rồi. Trống mất một mộ.” Chú Miên kéo ông lên thuyền, đưa cho ông cái khăn lau, miệng nói: “Thảo nào dạo nầy thấy hồ nhiều âm khí hơn bình thường. Tôi lại cứ tưởng là do đến mùa.”
Sư phụ Văn Sơn lau kỹ đầu tóc, mìm cười nói: “Ngày mai làm lễ cúng mượn hòm thôi. Hi vọng cái xác vẫn nằm yên ở đoạn sông làng Me chứ không trôi đi đâu xa. Trôi nữa tìm mệt lắm.” Chú Miên chèo thuyền đưa ba người về lán. Ba người ngủ một giấc đến sáng rõ mới tỉnh dậy. Minh Khánh bắt đầu nấu cơm sáng. Sư phụ và chú Miên thì mang lễ ra chỗ hồi đêm để cúng và mượn hòm. Minh Khánh nấu xong cơm, chờ một lúc thì thấy hai người trở về, trên thuyền còn chở theo một chiếc hòm bằng gỗ to.

Ăn xong, ba người thu dọn đồ đạc bắt đầu trở về. Lần này thuyền phải đi làm hai chuyến, một chuyến chở hòm, một chuyến chở người và đồ đạc. Chuyến đầu tiên, Minh Khánh và chú Miên chở cái hòm về bến trước. Trên thuyền Minh Khánh tiếp tục háo hức nghe tiếp câu chuyện rùng rợn dang dở đêm qua.
*******************
Tiếng ú a ú ớ của chồng đánh thực chị Ba Kho. Chị chép miệng, vỗ vỗ lên má chống. “Thầy nó ơi, thầy nó.” Chị vừa gọi xong thì thấy anh Ba Kho bật dậy. Trong bóng tối chị không nhìn rõ khuôn mặt chồng nhưng vẫn thấy vẻ hoảng loạn trong đôi mắt anh. Chị Ba sờ sờ lên người chồng. Áo anh ướt đẫm mồ hồi. Chị xót chồng, hỏi nhỏ: “Thấy nó mơ gì mà sợ thế? Áo ướt hết mồ hồi rồi nãy. ” Rồi chị ngồi dậy. “Để tôi đi lấy áo khác cho thầy nó thay kẻo cảm lạnh thì khổ.” Chồng chị nghe thấy vội nắm lấy tay chị. “Đừng đi, đừng đi.” Bàn tay run run của anh Ba Kho nắm chặt lấy tay chị. Chị Ba sợ chồng có chuyện, an ủi anh. “Ừ thì không đi. Nhưng để tôi đốt đèn lên nhé.” Anh Ba Kho gật đầu.
Chị Ba châm đèn cầy lên. Căn buồng ngủ của hai vợ chồng không còn tối om om nữa. Lúc này chị mới thấy anh Ba Kho ngồi co ro tựa vào thành giường. Khuôn mặt ánh lúc trắng lúc xanh. Đôi mắt anh vô hồn. Từ khi lấy anh đến giờ, chưa bao giờ chị Ba thấy chồng mình sợ hãi đến thế. Anh Ba vốn nổi tiếng gan lỳ khắp làng, lại biết võ. Nhớ ngày trước, vì mai phục bắt trộm, chồng chị từng kéo mấy anh em dân tráng ngủ đêm ở bãi tha ma ba bốn ngày liền. Chị sợ lắm, thế nhưng nói với anh thì anh chỉ cười rồi làm lơ đi. Chị Ba kéo chăn đắp cho chồng, hỏi: “Thấy nó mơ cái gì mà sợ thế?” Anh Ba không đáp lời chị, chỉ nói một cách vô thức. “Nó đến rồi, nó đến rồi.”

Chj Ba nghe mà chả hiểu gì cả. Chị muốn đi ra ngoài thì chồng chị không cho đi nên chỉ ngồi yên. Cứ thế hai vợ chồng thức đến sáng. Lúc chị mở cửa cho ánh nắng ban mai rọi vào phòng, anh Ba Kho mới như tỉnh hồn lại. Anh cũng không ngăn vợ đi ra ngoài nữa nhưng vẫn ngồi ôm gối như một pho tượng. Mãi đến khi chị Ba nấu xong, bưng lên đút cho anh ăn hết một bát to cháo đỗ hành tăm thì anh mới đỡ đi đôi chút. Rồi anh nằm xuống ngủ, chắc đêm qua đã mệt lắm.
Anh Ba Kho chưa ngủ được bao lâu thì có hai người một cao một thấp chạy vào. Chị Ba biết hai người này cũng trong đội dân tráng với anh. Người to cao tên là Bảy Dậu, người thấp béo tên là Xồm Bánh Ú. Cả hai vừa cùng làng, lại vừa là họ hàng xa với anh Ba Kho nên trong đội dân tráng thuộc vào thân tín của anh. Chị Ba đưa tay lên xuỵt ra hiệu cho bọn họ yên lặng, rồi nói: “Hai chú vào uống nước. Anh Ba vừa mới ngủ. Hôm qua anh bị cảm trằn trọc cả đêm.”
Xồm Bánh Ú trả lời chị: “Chị Ba ơi, chuyện gấp lắm. Bọn đệ cũng khuông muốn làm phiền anh Ba lúc này nhưng mà…” Chị Ba thấy khuôn mặt Xồm Bánh Ú đầy lo lắng mà bảy Dậu cũng gật đầu lia lịa mới chép miệng. “Thôi thế để tôi vào kêu anh Ba…” Anh Ba Kho thấy vợ gọi, cũng không rời giường, chỉ bảo vợ mang hai người kia vào. Bảy Dậu và Xồm Bánh Ú thấy khuôn mặt tái xanh của anh Ba Kho liền lên tiếng thăm hỏi. Anh Ba Kho chỉ ậm ờ cho qua, rồi hỏi: “Có chuyện gì mới xảy ra sao?” Xồm Bánh Ú thưa: “Anh Ba ơi, xóm Thượng đêm qua chết mất mấy người…. Hồi sáng có người qua báo tín.” Anh Ba Kho cũng không hoảng hốt hỏi lại: “Sao mà chết?” Bảy Dậu đáp: “Thấy bảo là bị dìm chết.” Anh Ba Kho nói: “Hai người lấy thêm mấy anh em dân tráng, phong tỏa chỗ đó lại. Rồi gọi lão Tư ở nghĩa trang cùng với thầy lang đi coi, xem rõ ràng chết thế nào, chết bao giờ…” Xồm Bánh Ú lại hỏi: “Anh Ba không đi sao?” Anh Ba Kho lắc đầu chán nản: “Tôi ốm lắm. Mà có đi cũng chẳng giải quyết được gì” Nói rồi anh trùm chăn nằm ngủ tiếp khiến hai người đứng nhìn nhau.