Đông A Nông Sự

Chương 15: Thiên Cẩu Thực Nhật





Bách lại cùng Đinh lão lên Đền học tập, thời gian này hắn học rất chú tâm.

Hắn lấy bản Đại Việt sử ký của mẹ mình trong điện thoại, đọc lại về giai đoạn này.

Ghi chép một số mốc thời gian quan trọng.

Ngoài việc này ra thì thỉnh thoảng xuống núi thăm mảnh ruộng, kiểm tra cây giống.

Lúa đã lên xanh, đẻ nhành tốt.

Ngô thì cũng được 5,7 lá rồi, các cây lạc đậu thì được lão Tuất và lão Sửu chăm như con mọn, không để sâu bọ tới gần.

Những lúc xuống núi, hắn đều tập trung tá điền, nói cho họ một vài kiến thức canh nông.

Không biết có vào tai họ không nhưng hắn nghĩ bụng cứ làm thôi.

Kết quả được đến đâu hay đến đấy.
Càng gần đến tháng 3 thì trên đền càng nhộn nhịp.

Quan địa phương cũng lên đền mấy lượt để chuẩn bị cho ngày tế tổ.

Theo lệ thì ngày 11 tháng 3 âm lịch hàng năm [1], các làng xung quanh đền Hùng sẽ tổ chức cúng tế vua Hùng Vương thứ 18.

Các làng xung quanh như Tiên Cương, Hy Cương, Thậm Thình, Phượng Giao, Cổ Tích ...!đều tổ chức các đoàn rước lên đền rất rôm rả.

Năm nay, do vua mới lên ngôi cử Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải thay mặt Trần Thánh Tông lên tế quốc tổ Hùng Vương, đây cũng là nhà Trần tỏ cái ân đức của Vua Hùng mà làm vậy.
Nhằm ngày mùng một, khi hương thân mấy làng đang tập trung chuẩn bị làm lễ cúng.

Giờ Tỵ mà trời bỗng tối đen như mực, mọi người ngây ra hoảng sợ.

Lão Đinh là thủ từ, là người đứng ra quán xuyến mọi mặt cũng vô cùng kinh hãi.

Lão biết đế vương chính là mặt trời, nhật thực xảy ra ứng với điềm phạm vào đế vương.

Vua mới vừa đăng cơ đã có điềm này quả thật là đại kỵ.
Riêng Bách và Đinh Nhu thì biết trước điều này rồi, hắn đã bảo tên kia chuẩn bị.

Hai tên chỉ chờ Nhật thực là trèo tận trên cây cao, đeo kính râm ngắm nghía.

Đinh Nhu xem một hồi thì thấy rõ một hình cầu màu đen tiến gần đến mặt trời, một lúc thì che khuất rồi lại sáng trở lại.

Hắn quay ra nói:
- Khi xưa nghe Thiên cẩu thực nhật thì ra chỉ là láo toét, ta thấy rõ ràng có một khối cầu chắn ánh sáng mặt trời.

- Khối cầu đấy là mặt trắng đấy.
Hai đứa trèo xuống, quay lại chính điện.

Bách thầy các bô lão mặt đầy lo lắng, đứng ngồi không yên.

Viên An Phủ Sử Tam Giang lộ [2] là Trần Quốc Lặc [3] cũng cấp tốc lên đền.

Mặt mày ủ rũ, hắn là quan phụ mẫu phụ trách vùng này, theo lệ hàng năm chính là chủ tế.

Thay mặt Quan gia làm tế lễ với vua Hùng, cầu cho quốc thái dân an.

Năm nay vì có Chiêu Minh Vương đến nên hắn càng phải cẩn thận.

Xảy ra nhật thực làm hắn hoảng hốt, tuy cũng không tội vạ gì đến mình nhưng ai biết được có xảy ra chuyện giận chó chửi mèo hay không? Vừa lên đến Đền đã gọi lão Đinh ra nói:
- Lão Đinh, xảy ra nhật thực như vậy mọi người càng cần gắng sức chuẩn bị.

Ngày 10 Chiêu Minh Vương sẽ lên đến đây, lão bố trí chỗ nghỉ ngơi cho Vương gia và bộ hạ thật chu đáo.

Ta dự định sẽ đón ngài nghỉ trong trang viên ở Kim Đức.

Đừng để ngài có gì phật ý.
Đoạn quay sang mấy hương thân của các làng:
- Các ông cũng về bàn với lý trưởng các làng Tiên Cương, Hy Cương, Thậm Thình, Phượng Giao, Cổ Tích … nghĩ cách tổ chức thêm các trò vui, đu dây, cưỡi ngựa, kéo xe … cốt làm cho náo nhiệt lên.

Nếu cần thì ra bãi Bạch Hạc tổ chức bơi chải và đua thuyền.

Tuyền chọn cho ta tú nữ các làng, tập hát cho tốt mấy điệu hát xoan, hát ghẹo.

Vương gia đến thì cho hát hầu trong Đình làng.

Tối đó sẽ làm thật huyên náo, mong Vương gia vui lòng mà quên đi điềm xấu.
Các hương thân dạ ran rồi quay đi chuẩn bị.

Trần Quốc Lặc cũng lên đền, kiểm tra trong ngoài một lượt, khi đi xuống thì sai dân binh canh phòng nghiêm ngặt rồi mới hồi phủ.

Hắn hạ cấm lệnh tất cả quan khách chỉ vãn cảnh xung quanh đền.

Không ai được vào bên trong.
Quan trên đi rồi, Bách nói với Đinh lão đang thất thần:
- Nhật thực này có gì ghê gớm mà quan viên và hương thân hốt hoảng thế cụ?
- Với chúng ta thì nhật thực cũng không nhiều ảnh hưởng, nhưng theo thuyết nhân thần cảm ứng của người xưa.

Bậc đế vương làm vua thiên hạ.


Mọi hành đông suy nghĩ đều được cảm ứng bởi người và trời.

Thế cho nên dị tượng xảy ra là có liên quan đến bậc đế vương.

Những hiện tượng như nhật thực, nguyệt thực, sao sa, động đất, đều là do cái đức của Đế Vương cả.
Đinh Nhu cười to:
- Không phải đâu ông ơi, chỉ là Mặt trăng chạy cắt ngang Mặt trời nên che lấp nó một lúc thôi.

Làm gì có nhiều chuyện như thế.
- Im miệng, ai cho ngươi xen miệng vào đây.
- "Cháu vừa …" Hắn nói được nửa câu thì sợ ông cụ cũng không nói nữa.
Bách cười giải vây cho hắn:
- Sao có chuyện ấy được, những hiện tượng tự nhiên này đều có quy luật, có thể tính toán được.

Hoàng triều nhà Trần sẽ còn tồn tại, suy vi làm sao được chỉ vì cái mấy cái hiện tượng này.
- Cháu còn nhỏ, sao nói kiêu ngạo thế.

Nhật thực là do thiên cẩu thực nhật, làm sao tính toán được.
- Cháu biết ngày hôm nay có nhật thực từ lâu rồi.

Cháu còn biết ngày 25 tháng này, mặt trời xuất hiện hai quầng, quầng bên trong mầu vàng.
Lão Đinh nhìn Bách kinh hãi.

Khi xưa lão học với sư phụ Đỗ Tất Bình ở thôn Phúc Chữ (nay là làng Phủ Lý Trung).

Đỗ lão là đại nho đương thời, tinh tường toán học và thuật phong thủy.

Đỗ lão có nói với về việc bên nhà Tống có người tính toán được nhật thực, nhưng thuật ấy đã thất truyền từ lâu.

Bây giờ có người nói làm được việc này, lão hồ nghi lắm.

Nhưng biết Bách được cao nhân dạy bảo, nếu lời hắn là đúng thì quả thật là việc tốt cho đất nước.
- Tứ thúc nói đúng đây, thúc nói với cháu mấy hôm trước rồi.

Cháu và Tứ thúc vừa đi xem xong.
Mặt lão Đinh trở nên ngưng trọng:
- Việc nhật thực này đã vô cùng hệ trọng, lại xảy ra không đúng lúc.

Triều đình chắc cũng đang xôn xao, lúc này Quan gia hẳn là đang tìm cách đối phó với việc này.


Nhưng nếu đúng như cháu nói, ngày 25 tháng này, mặt trời có dị tượng thì là điềm đại cát.

Nếu báo việc này lên Chiêu Minh Vương thì sẽ là công to.
- Cháu chắc chắn, việc này là do sư phụ cháu tính toán rồi nói cho cháu mấy năm trước.

Không thể sai được! Cụ đã từng gặp Chiêu Minh Vương chưa? Ngài là người thế nào?
- Ta chưa được gặp ngài.

Nhưng trong ngoài triều đánh giá người này cao lắm.

Chiêu Minh Vương sinh năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 10, năm nay mới 20 tuổi.

Là con thứ ba của Thượng Hoàng, mẹ là Thuận Thiên hoàng hậu Lý thị.

Ông là em cùng mẹ với Quan gia.

Khi Vương gia mới sinh, phát chứng kinh suýt chết, Thái Tông lấy áo của Thượng hoàng và thanh gươm báu truyền quốc để bên cạnh rồi bảo ông: "Nếu sống lại, sẽ ban cho những thứ này".

Đến khi sống lại, Thái Tông đổi ý: "Gươm báu truyền quốc, không thể trao bừa, chỉ ban cho áo của Thượng hoàng thôi".

Có thể thấy địa vị Vương gia cực cao.

Trong triều chỉ có Hưng đạo vương mới có thể so sánh.
- Như vậy mà Quan gia không có tỵ hiềm gì với Chiêu Minh Vương sao?
- Quan gia là người rộng lượng, nhà Trần lại vốn có lệ thân cận với anh em.

Đối với người trong hoàng tộc, quan gia luôn coi là thân thiết, xuống chiếu cho các vương hầu tôn thất, khi bãi triều thì vào trong điện và lan đình, cùng ăn uống với họ.

Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải chăn rộng, kê giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau.

Còn như trong các lễ lớn như triều hạ, tiếp tân, yến tiệc thì phân biệt rõ ngôi thứ, cấp bậc cao thấp.

Vì thế, các vương gia không ai là không hòa thuận.
- Quả đúng là chuyện lạ.

Các triều vua thường có lòng nghi kỵ, truyện tranh quyền đoạt lợi là không thể tránh khỏi.

Nồi da xáo thịt, đun đậu làm canh, đến nhà Trần chẳng phải là không có sao?
- Tất nhiên là vẫn có.

Như truyện năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 6.

Thái Thượng hoàng lập công chúa Thuận Thiên họ Lý, là vợ của An Sinh Vương làm hoàng hậu đã gây ra sóng gió rất lớn.

Nhưng rồi do anh em họ cuối cùng vẫn có lòng yêu thương nhau nên cũng yên ổn.

Chỉ có điều đã tạo thành ngăn cách hai dòng chính của Thái tông.
Bách trầm ngâm nghĩ lại chuyện này, đây là một câu truyện nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.

Trần Thái Tông lúc ấy chưa có con trai.


Trần Thủ Độ xúi với vua lập vợ của An Sinh Vương Trần Liễu làm hoàng hậu vì bà này đang có mang.

Trần Liễu tức tối vì bị cướp vợ, họp quân ra sông Cái làm loạn.

Trần Thái Tông trong lòng áy náy, ban đêm trốn lên núi Yên Tử rồi ở lại đó.

Trần Thủ Độ dẫn các quan đến mời vua trở về kinh thành.

Vua nói:
- Vì trẫm non trẻ, chưa cáng đáng nổi sứ mạng nặng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xã tắc.
TrầnThủ Độ mới bảo mọi người rằng:
- Xa giá ở đâu tức là triều đình ở đó.
Thế rồi cắm nêu trong núi, chỗ này là điện Thiên An, chỗ kia là các Đoan Minh, sai người xây dựng.

Vua sợ phải trở về kinh đô.

Ít lâu sau, Liễu tự lượng thế cô, khó lòng đối lâp được, ngầm đi thuyền độc mộc giả làm người đánh cá, đến chỗ vua xin hàng.

Lúc ấy vua đang ở trong thuyền, vội vàng bảo Thủ Đô:
- Phụng Càn Vương (Phụng Càn là tên hiệu cũ của Liễu hồi còn nhà Lý) đến hàng đấy! Rồi lấy thân mình che đỡ cho Liễu.

Thủ Độ tức lắm, ném gương xuống sông nói:
- Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào?
Vua nói giải hòa, rồi bảo Thủ Độ rút quân về.

Lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (Đông Triều, Quảng Ninh) cho Liễu làm ấp thang mộc.
Xét truyện này thì thấy anh em nhà vua vẫn yêu thương nhau.

Nhưng tam cương ngũ thường là luân lý lớn của loài người.

Thái Tông là ông vua khai sáng cơ nghiệp, đáng lẽ phải dựng phép tắc để truyền lại cho đời sau, lại nghe lời Trần Thủ Độ, cướp vợ của anh làm hoàng hậu.

Từ đó mở ra lệ xấu cho nhà Trần là quan hệ hôn nhân cận huyết hay hôn nhân nội tộc.
Tuy là triều đại được được lưu danh bởi những võ công hiển hách nhất trong lịch sử Việt Nam nhưng ở triều Trần, cảnh em chồng lấy chị dâu, con cô con cậu, cô cháu lấy nhau rất nhiều … Bách chỉ biết cảm thán vì cái triều đại loạn luân này.

Từ nhỏ hắn đã quan tâm đến môn sinh học nên rất rõ về nguy hại của hôn nhân cận huyết.

Các bệnh di truyền trên gene lặn thì nếu bố mẹ cùng mang gen này mới có khả năng biểu hiện gen.

Nhưng nếu là anh em cận huyết thì chắc chắn cả bố mẹ đều đã mang gen này.

Nếu sinh con thì sẽ có 25% khả năng mắc bệnh di truyền này.

Đây là tỷ lệ cực cao, cứ tưởng tượng đời sau của hoàng tộc nhà Trần có ¼ số người mang bệnh di truyền là Bách thấy sự suy vọng là không thể tránh khỏi.
[1] “Năm Khải Định thứ hai, tức năm 1917 lịch dương, Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc có công văn xin Bộ Lễ ấn định lấy ngày mồng 10 tháng 3 hàng năm làm ngày Quốc tế, tức trước ngày giỗ Hùng Vương thứ 18 một ngày, ngày 11 tháng 3, do dân sở tại cúng tế”.

Đây cũng là cứ liệu xác tín nhất để xác định rõ ràng ngày lễ chính thức Giỗ Tổ Hùng Vương 10 tháng Ba âm lịch chỉ được ban hành từ hoàng triều Khải Định.
[2] Tương đương quan Tri phủ đời sau, quan hàm chánh thất phẩm, quản lý một tỉnh.