Lưngtôi va phải vật gì rất góc cạnh, vòng tay ra phía sau, chưa chạm đến lưng đãđụng phải một thứ kỳ lạ. Cùng lúc đó, một mùi hôi thối nồng nặc xông lên não,kích thích tôi choàng tỉnh.
Phíatrước, một đôi mắt mở to đang nhìn tôi chằm chằm, vệt máu khô đét dính trênđỉnh đầu, khuôn mặt hung tợn, dữ dằn. Tôi kinh hoàng bật dậy, nhưng mặt đất gậpghềnh dưới chân khiến tôi chao đảo. Tôi chống tay, những tiếng răng rắc vanglên, đưa mắt nhìn xuống, tôi vừa ngồi lên và làm gẫy cẳng chân của một ngườinào đó, bàn tay dính đầy vệt máu đỏ sẫm, nhớp nháp. Trời đất ơi, tôi đang ở nơinào thế này? Đưa mắt ra xung quanh, cơn buồn nôn lập tức ập đến.
Tôiđang ở trong một cái hố chôn cực lớn, đường kính chừng hơn chục mét và chỉ mìnhtôi là người sống. Tầng tầng lớp lớp thi thể chất cao thành đống, mùi hôi thốikhông ngừng xông lên, tôi nôn ra cả mật xanh mật vàng. Tay bịt mũi, tôi kinh sợđưa mắt quan sát khung cảnh trước mắt. Nhìn y phục trên người và khuôn mặt củanhững tử thi mất tay mất chân, hay thậm chí mất đầu ấy, tôi đoán họ là binhlính Khâu Từ và rất nhiều tộc người du mục vùng Trung Á khác. Nếu thời gian vàđịa điểm cài đặt trên cỗ máy thời gian là chính xác, thì cảnh tượng trước mắtcó lẽ là kết quả của cuộc đại chiến giữa Bạch Thuần và Lữ Quang.
Khôngphải tôi chưa từng thấy thi thể. Những xác ướp trong viện bảo tàng ở Ai Cập,những bộ xương người trong viện bảo tàng ở Tân Cương, tôi cũng từng theo đoànkhảo cổ đi khảo sát những lăng mộ dưới lòng đất. Chưa kể đến những thi thểkhông đầu trong các động đá thuộc vương quốc Guge (Tây Tạng) cổ đại, vì ở trêncao nguyên, không khí loãng, trải hơn sáu trăm năm lịch sử, các thi thể vẫnchưa phân hủy hoàn toàn, đến tận bây giờ vẫn nồng nặc mùi xú uế. Vụ thảm sát ởNam Kinh với hố chôn hàng vạn người, đài tưởng niệm được xây dựng dưới lòngđất, mỗi khi bước chân vào đó, những bộ xương trắng bao quanh bạn, cảnh tượngthảm thương đến mức khiến bạn phải nhắm mắt lại, không dám nhìn. Tôi không phảikẻ nhát gan, vì nếu thế tôi đã không theo học ngành lịch sử. Nhưng chưa bao giờtôi khiếp sợ như thế này. Tận mắt chứng kiến sự chết chóc và hệ hô hấp khôngngừng thu nạp thứ mùi hôi thối đặc trưng của thi thể vừa bắt đầu phân hủy ấy vàtôi lại đang ở nơi mà một khoảng trống không xác người để đặt chân lên cũngkhông có. Tôi ngẩng đầu, vậy là mặt đất đang ở cách tôi một khoảng vượt quáchiều cao của tôi.
Trongba lô của tôi có dây móc và một vài vật dụng trèo tường chuyên dụng. Trước đó,nhóm nghiên cứu đã mời giáo viên thể dục và lính đặc công đến huấn luyện chotôi một số thao tác cơ bản để có thể giúp tôi sống sót trong thời đại mà tínhmạng con người bị coi như cỏ rác này. Tôi đã mặc quần áo rằn ri để luyện tậpvượt qua tường cao, nhảy qua hố sâu, học cách vật lộn và những kỹ thuật phòngthân của con gái. Tuy thời gian tập luyện rất ngắn ngủi, trình độ chỉ ở bậcamateur, nhưng ít nhiều cũng có chút kỹ thuật. Nhưng, vấn đề ở chỗ, tay chânmình mẩy tôi lúc này đang run lên cầm cập, thậm chí không đủ sức để lấy công cụtrong ba lô ra nữa. Trừ phi tôi phải nhắm chặt mắt lại để không phải nhìn thấynhững cánh tay, bắp chân đứt rời và nhầy nhụa máu, bịt chặt mũi để không ngửithấy thứ mùi khủng khiếp nhất trên cõi đời ấy. Mà như thế, cả não bộ của tôicũng trở nên tê liệt, tôi không kéo nổi khóa ba lô, nỗi sợ hãi bật lên thànhtiếng khóc.
Lạimột thi thể bị ném xuống, thiếu chút nữa đã đè nát người tôi. Bên trên cóngười! Tôi như kẻ chết đuối vớ được cọc, không kịp suy nghĩ, tôi vội gào lênkêu cứu. Mấy cái đầu người nhô ra trên mặt đất, vẻ mặt hoảng sợ. Có lẽ họ nghĩtôi là xác chết sống dậy. Tôi vội vàng giải thích tôi là người sống, do bất cẩnnên mới sa chân xuống hố. Gào thét một thôi một hồi mới thấy một sợi dây thừngđược thả xuống.
Lên đếnmặt đất mà tôi vẫn trong trạng thái hồn bay phách lạc, sau đó thì nhận ra rằngtình trạng sau khi được cứu thoát cũng không mấy sáng sủa. Những người kéo tôilên có vẻ như là binh lính của Lữ Quang và vì phụ trách công việc dọn dẹp chiếntrường, chôn lấp xác chết nên họ đều là những lính tráng hoặc già nua yếu đuối,hoặc bệnh tật đầy mình. Bị vây bọc giữa đám lính chẳng có vẻ gì là thân thiện,tử tế này khiến tôi không khỏi than thở cho tình cảnh “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”của mình.
Chưahoàn hồn với nỗi kinh hoàng vừa trải qua, tôi đã phải nhanh chóng nghĩ cách đốiphó với tình cảnh trước mắt. Trong chiến tranh, phụ nữ bị xem là chiến lợiphẩm. Những thương binh tàn phế này làm gì có cơ hội xung phong lên tuyến đầuđể có thể được ban thưởng phụ nữ hay vàng bạc, châu báu kia chứ. Vậy nên họchắc chắn sẽ xem tôi như một món quà từ trên trời rơi xuống. Tuy có mang theosúng gây mê, nhưng ở khoảng cách gần như vậy, lại đông người thế này, tôi khôngbiết mình có thể bắn hạ bao nhiêu tên.
Trướcmặt tôi đều là những khuôn mặt người Hán, tôi gắng gượng cười thật tươi, chắptay cung kính, thưa chuyện với họ bằng tiếng Hán:
- Thưacác anh, tôi vốn là thê thiếp mới của ngài Đoàn Nghiệp, bộ hạ của tướng quân ĐỗTấn. Hôm nay ra ngoại thành hái thuốc, chẳng mai trượt chân rơi xuống hố sâu,gây cản trở công việc của các anh, tôi xin có lời tạ lỗi.
Trongsố các bộ hạ người Hán theo Lữ Quang Tây chính, tôi chỉ biết Đỗ Tấn và ĐoànNghiệp. Đỗ Tấn là tướng tá đắc lực của Lữ Quang, mà công lao to lớn nhất của ĐỗTấn là giúp Lữ Quang bình định Hà Tây[23].Sau đó, Đỗ Tấn đã được phong chức tướng quân hộ quốc, rồi Thái thú võ uy. Nhưngvì quyền cao chức trọng, ra vào oai vệ chẳng khác nào Lữ Quang, nên Lữ Quangsinh lòng đố kỵ đã viện cớ trừ khử Đỗ Tấn.
CònĐoàn Nghiệp, chính là người lập ra nhà Bắc Lương thời Thập lục quốc, nhưng lạichỉ là một thư lại nhỏ bé dưới trướng Đỗ Tấn khi Lữ Quang đem quân chinh phạtKhâu Từ, về sau, Đoàn Nghiệp được thăng chức Thái thú Kiện Khang (nay là TửuTuyền, Cam Túc). Năm 397, Thư Cừ Nam Thành, người Hung Nô lật đổ nhà Hậu Lươngcủa Lữ Quang, đưa Đoàn Nghiệp lên ngôi vua Lương nhằm mua chuộc lòng người. Thếlà từ một bậc “nho nhã, không chút quyền hành trong tay”, Đoàn Nghiệp bỗngnhiên trở thành quốc vương của Bắc Lương thời Thập lục quốc.
Quânđội của Lữ Quang tập hợp đủ mọi tộc người. Lữ Quang cùng thuộc tộc người Đê vớiPhù Kiên. Còn tôi mang diện mạo của một người Hán, bởi vậy, phải tìm một ngườiHán để có thể qua mặt đám quân lính trước mắt. Tôi chọn Đoàn Nghiệp mà khôngchọn Đỗ Tấn vì chức vụ của ông ta quá cao, nếu tôi nói mình là thê thiếp củaông ta, chắc chắn sẽ có người sinh nghi. Còn Đoàn Nghiệp, lúc này mới hai mươituổi, chỉ là một văn thư quèn dưới trướng Đỗ Tấn, những người biết rõ về thêthiếp của người này chắc không nhiều. Hành quân ra trận vốn dĩ không được đưangười thân đi cùng, nhưng vì Lữ Quang muốn chiếm đóng Khâu Từ lâu dài, nên đãcho phép tướng lĩnh của mình nạp thiếp.
Nhữngngười đó quả nhiên lộ vẻ bực tức, vì họ chẳng dám đắc tội với cấp trên. Tôi thởphào, định xoay người bước đi thì một người trong số họ cứ nằng nặc đòi đưa tôiđến gặp Đoàn Nghiệp, chắc là muốn nịnh bợ đây mà! Từ chối không được, vả lạinghĩ rằng một thân một mình cũng khó vào thành, tôi liền ưng thuận đi theo anhta.
Đườngvào thành trải ra trước mắt tôi những vết tích tang thương mà chiến tranh gâynên. Xác người, xác ngựa la liệt trên đường, mùi xú uế nồng nặc khắp nơi. Xengựa, gạch đá dùng để công phá thành nằm ngổn ngang trên lối đi. Gươm đao giáomác cong mẻ gập gẫy chất đầy đường. Những bức tường thành Khâu Thành loang lổ,vỡ nát, tan hoang.
Khôngđược chứng kiến tận mắt trận chiến này, nên tôi chỉ có thể nhớ lại những ghichép trong sách sử.
Quâncủa Lữ Quang có bảy mươi ngàn bộ binh, năm ngàn kỵ binh, cộng thêm binh lực củaShanshan và Chrish đi tiên phong, tổng cộng khoảng một trăm ngàn quân. Còn BạchThuần, dốc sạch quốc khố cầu viện Khoái Hồ, Khoái Hồ phái hơn hai mươi vạn quânđến chi viện. Cộng thêm binh lực của Wensu, Weitou, tổng cộng hơn bảy trăm ngànquân.
Cuộcchiến với binh lực quá ư chênh lệch ấy lại mang về chiến thắng vang dội cho LữQuang, ông ta quả không hổ danh là tướng tá đắc lực của Phù Kiên. Sách “Tấnthư” chép rằng, khi ấy, các tướng sĩ đều cho rằng: địch đông ta ít, cần dựng trại,dàn trận, tính kế lâu dài. Nhưng Lữ Quang không nghe, nói rằng: địch đông taít, càng dàn trận càng phân tán lực lượng, không phải kế hay.
LữQuang lệnh cho binh lính dựng trại phía nam thành Khâu Từ, cứ năm dặm một trại,đào hào sâu, đắp lũy cao, dùng kế nghi binh, đội mũ sắt, mặc áo giáp, cắm cờlên bù nhìn bằng gỗ giả người thật, nhằm đánh lạc hướng quân Khâu Từ trong nộithành. Sau đó, dẫn đại quân đón đánh liên quân Khoái Hồ ở phía tây. Kỵ binhKhoái Hồ nhất loạt mang áo giáp sắt, giáp trụ cứng như thép, mũi tên không thểxuyên thủng. Thêm vào đó, quân yểm trợ lại là đội khinh kỵ tinh nhuệ, sử dụngroi da làm vũ khí, thúc ngựa vung roi quật ngã đối phương, trăm phát trămtrúng. Bởi vậy, giai đoạn đầu cuộc chiến, Lữ Quang rơi vào thế yếu.
Lữ Quangnhận thấy quân Khoái Hồ chỉ có đội kỵ binh là tinh nhuệ, đội quân còn lại tuyđông đảo nhưng chỉ là đám dân du mục bị bắt đi lính nên Lữ Quang nghĩ ra cáchđối phó với kẻ địch là chặt chân ngựa chiến. Đám kỵ binh khi bị ngã trở nên bấtlực, vì bộ giáp sắt mặc trên người quá nặng khiến họ không thể di chuyển, càngkhông thể chống trả. Quân của Lữ Quang chặt đầu hơn mười ngàn lính Khoái Hồ,tin tức bay về khiến Bạch Thuần run sợ. Đức vua Khâu Từ vội vàng vơ vét củacải, bỏ thành mà chạy. Hơn ba mươi nước chư hầu trong vùng nghe nói Khâu Từ bạitrận, đã ùn ùn kéo đến xin hàng.
BạchThuần thua trận khi đã gần sáu mươi tuổi, ông ta trốn chạy đến đâu, sử sáchkhông ghi chép. Lữ Quang chiếm thành, đưa người em út của Bạch Thuần là BạchChấn lên ngôi vua.
Khâu Từlà quốc gia mạnh nhất ở Tây vực, điều đó khiến các nước chư hầu khác không hàilòng. Bởi vậy khi được lệnh đến Trường An cống nạp, vua nước Shanshan, vua nướcChrish và Bạch Chấn đã gặp riêng Phù Kiên, thỉnh cầu vua Hán chinh phục Tây vựcvà xin làm “hoa tiêu dẫn đường”. Quân của Lữ Quang có thể thuận lợi vượt qua batrăm dặm cồn cát và những sa mạc mênh mông nối tiếp nhau ở Tây vực, phần lớnnhờ vào công lao của các “hoa tiêu” này trong đó cũng có sự đóng góp của BạchChấn, vì từ lâu “cậu út” đã có dã tâm đoạt ngôi.
Vừa đivừa nhớ lại những ghi chép trong các tài liệu lịch sử, chẳng mấy chốc đã đếncổng thành. Thành Khâu Từ phồn hoa thịnh vượng năm nào giờ đây hoàn toàn vắnglặng, đìu hiu. Lác đác vài bóng người trên phố, nhà nào nhà nấy cửa đóng thencài. Quân lính của Lữ Quang mặt đỏ gay gắt, chân nam đá chân chiêu, ngật ngưỡngtrên phố vắng, thấy nhà nào cửa hẹp tường cao là xông vào, theo sau đó là nhữngtiếng gào khóc thảm thiết vang lên.
Sau khivào thành và nhìn thấy cung điện nguy nga, tráng lệ của Bạch Thuần, Lữ Quang đãhạ lệnh cho Đoàn Nghiệp viết một bài phú “Cung điện Khâu Từ” với nội dung châmbiếm, đả kích. Người dân Khâu Từ có cuộc sống no đủ và họ rất biết cách hưởngthụ, trong nhà mỗi gia đình đều ủ rất nhiều rượu nho. Mỗi gia đình thậm chí cấtgiữ hàng nghìn thùng rượu, sau mười năm, hương rượu nồng nàn thấm đẫm trongkhuôn viên phủ đệ. Lữ Quang vì muốn khoản đãi tướng sĩ sau chiến thắng, đã dungtúng cho đám lính của mình thỏa sức cướp bóc, số quân lính ngập chìm, thậm chíbỏ mạng trong men rượu nhiều không đếm xuể.
- Đoànđại nhân!
Suynghĩ bị cắt ngang, tên lính người Hán đi cùng tôi hướng về một người dáng vẻthư sinh, khép tay hành lễ. Họ Đoàn, có phải là Đoàn Nghiệp?
Nếukhông tìm cách trốn thoát tất sẽ bị lộ. Nhưng ngõ phố gần nhất cũng cách tôiđến hai mươi mét. Nếu cố tình bỏ đi, e rằng chưa được mấy bước đã bị bắt lại.Vừa căng thẳng nghĩ cách thoát thân, nhưng lòng hiếu kỳ lại dâng cao mãnh liệt,tôi muốn được tận mắt nhìn thấy dung mạo của hoàng đế Bắc Lương. Theo họcchuyên ngành này thật nguy hiểm, lòng hiếu kỳ có thể khiến người ta phải đềnmạng như chơi.
ĐoànNghiệp chừng hai mươi tuổi, cao khoảng một mét bảy mươi lăm, khuôn mặt vuôngvức, dáng vẻ nho nhã, trên tay cầm giấy bút, đang trò chuyện với một quân nhân,nhìn thấy tên lính người Hán, liền quay lại đáp lễ.
- Đoànđại nhân, ngài đây rồi, tôi đang tìm ngài. Phu nhân một mình ra ngoại thành háithuốc rất nguy hiểm, cô dâu mới mà sao ngài không biết thương hoa tiếc ngọc?
ĐoànNghiệp tất nhiên rất kinh ngạc, liếc nhìn tôi, định mở miệng phủ nhận, tôi giảbộ vui mừng khi nhìn thấy người thân, vội lao đến trước mặt hắn, hạ giọng:
- Tôiđược cao nhân chỉ điểm, thông tỏ thiên cơ, nếu đại nhân chịu ra tay cứu giúp,tôi nhất định sẽ báo đáp ơn này.
Sử sáchchép rằng, Đoàn Nghiệp vốn là kẻ khù khờ, chỉ tin vào bói toán tà thuật. Cầumong sao chiêu bài này của tôi sẽ đánh trúng tâm ý hắn.
Hắnnhìn tôi đầy nghi hoặc, có vẻ như không tin tôi có khả năng đó cho lắm. Cũngphải thôi, tôi còn quá trẻ, khắp người bốc mùi hôi hám, chẳng có chút khí chấtthần thánh nào cả. Tôi bỗng chột dạ, vội hỏi khẽ:
- Đêmtrước khi công phá thành Khâu Từ, Lữ tướng quân từng mơ thấy voi vàng bay ravùng ngoại thành, đúng không?
Đó lànhững ghi chép trong sách “Tấn thư”, giấc mơ đó đã khiến Lữ Quang càng có thêmtự tin rằng “thánh thần đã rời bỏ thành Khâu Từ, người Hồ tất sẽ diệt vong”.Sách “Tấn thư” ghi chép rất nhiều những điều kỳ quái, thần thánh mang màu sắcmê tín nên rất nhiều nhà sử học về sau này không xem đó là chính sử. Còn tôithì đang đặt cược, tôi cược rằng, trước tình thế địch mạnh ta yếu, Lữ Quangđúng là đã bịa đặt ra giấc mơ kì lạ đó để động viên binh sĩ. Nếu tôi thua, tôicũng chẳng còn đường thoát nào khác.
ĐoànNghiệp kinh ngạc ngẩng lên, trầm ngâm một lát, lại nhìn tôi, không khẳng địnhcũng không phủ nhận. Cảm ơn tên lính người Hán, tạm biệt người vận đồ quân nhânvừa trò chuyện với mình, anh ta đưa tôi rời khỏi đó trong tiếng cười giễu củabọn họ.
Bước đicùng Đoàn Nghiệp mà trong lòng không khỏi thấp thỏm lo âu. Tuy nhiên, theo tàiliệu lịch sử thì Đoàn Nghiệp không phải là kẻ nóng nảy, hiểm ác như Lữ Quang.Nếu không ổn, một mình hắn tôi cũng có thể đối phó được. Đoàn Nghiệp đưa tôiđến nhà một thường dân, bên trong có rất rất nhiều người vóc dáng văn nhân, họcất tiếng chào anh ta. Có lẽ quân Lữ Quang đã cưỡng chế trưng dụng căn nhà nàylàm nơi tụ họp của các quan văn.
Khi chỉcòn hai chúng tôi ở trong phòng, tôi chắp tay trước mặt Đoàn Nghiệp:
- Tôivì muốn giữ mạng, đã mạo muội nhận mình là người nhà của Đoàn đại nhân, xin đạinhân thứ tội.
- Cônương xin đừng khách sáo, ta hiểu nỗi khó xử của cô.
Anh tarất nhã nhặn, lịch thiệp, khiến tôi có thêm vài phần thiện cảm.
- Vịcao nhân mà tôi nhắc đến, chính là đại pháp sư nổi tiếng khắp vùng Tây vực,Kumarajiva. Tôi tuy kiến thức nông cạn, nhưng may mắn được gặp pháp sư, nên đãhọc hỏi được rất nhiều điều bổ ích. Lần này đến Khâu Từ cũng vì mong được diệnkiến pháp sư. Nếu được ngài truyền thụ cho chút ít kiến thức, chắc chắn nănglực tiên đoán của tôi sẽ được nâng lên đáng kể.
Khôngbiết Rajiva hiện nay ra sao, tôi chỉ có thể dò la thông tin về cậu ấy bằng chủđề ưa thích của Đoàn Nghiệp.
- Danhtiếng của đại pháp sư Kumarajiva như sấm dội bên tai, được biết pháp sư có biệttài xem tướng số, lại thông thạo âm dương ngũ hành, tôi đây vốn đã ngưỡng mộ từlâu.
- Đoànđại nhân chưa gặp pháp sư bao giờ ư? Nghe nói pháp sư hiện đang ở chỗ của Lữtướng quân, lẽ ra đại nhân phải được gặp pháp sư thường xuyên mới đúng chứ?
Tôi nínlặng chờ đợi phản ứng của Đoàn Nghiệp.
Vẻ mặtanh ta vương chút ảo nảo:
- Tôirất muốn, nhưng pháp sư đang bị giam lỏng, tôi chẳng thể gặp ngài.
- Tôivà pháp sư vốn có duyên, nếu đại nhân có thể giúp tôi gặp được ngài, tôi nhấtđịnh sẽ xin pháp sư xem hậu vận cho đại nhân.
- Điềunày e là không thể.
Anh tacó vẻ rất sốt sắng, nhưng lại hơi do dự.
- Nghenói, tướng quân giam đại sư trong cung, với chức quan quèn như hiện nay, tôikhông thể gặp ngài.
Tronglòng ngập đầy nỗi thất vọng. Tôi chỉ biết cậu ấy bị giam trong cung, nhưngkhông rõ đã bị Lữ Quang ép phá giới hay chưa. Đoàn Nghiệp chỉ là một thư lạinhỏ bé, lại không phải thân tín thuộc tộc người Đê của Lữ Quang, nên chắc rằnganh ta cũng không biết được thông tin gì.
Tôiđành hỏi Đoàn Nghiệp những câu hỏi khác, được biết, thành Khâu Từ đã bị côngphá năm ngày rồi, ngày thứ ba, Bạch Chấn đăng cơ làm vua Khâu Từ.
Suynghĩ một lát, tôi cầu xin Đoàn Nghiệp giúp đỡ:
- Khôngbiết Đoàn đại nhân có thể cử người đưa tôi đi tìm Pusyseda – em trai pháp sưKumarajiva không?
Mộtmình trên phố lúc này chẳng khác nào sa vào hang hùm, khẩu súng gây mê nhỏ bécủa tôi chắc chắn không thể hạ gục đám lính đang điên cuồng cướp bóc ngoài kia.
Sợ ĐoànNghiệp từ chối, tôi vội vàng hạ thấp giọng một cách bí hiểm, nói với anh ta:
- Theoquan sát của tôi, tướng mạo của Đoàn đại nhân cho thấy ngài không phải hạng tômcá trong ao tù, ánh hào quang tỏa ra từ ngài chứng tỏ rằng, ngày sau, ngài sẽlàm nên nghiệp lớn.
- Cóthật không?
Anh tađúng là một kẻ mê tín, vẻ mặt trở nên bí hiểm, rồi hạ thấp giọng, dò hỏi:
- Sẽ làở đâu và khi nào? Xin cô nương cho biết.
Tôi rađiều kiện:
- Đạinhân chịu đưa tôi đi, tôi sẽ không ngại tiết lộ.
Mônthần học vốn rất thịnh hành vào thời Nam Bắc triều, gắn với Nho học, Huyền họctrong một thể thống nhất không thể tách rời. Thực ra đó chỉ là những dự đoánmang màu sắc kỳ lạ, bí hiểm mà thôi. Vương Mãnh muốn Phù Kiên giết tướng Sabir,nên đã cho người tung tin đồn “tháng Ất Dậu năm Giáp Thân, Ngư Dương ăn thịtngười”[24]. Phù Kiên không nghe, vẫn hậu đãiMộ Dung Thùy, nhưng chính sách đoàn kết các dân tộc hết sức tiến bộ của ngài đãkhông có hiệu quả. Và lời cảnh báo của Vương Mãnh lại hết sức chính xác. Năm384, tức là năm Giáp Thân, nhà Tiền Tần bắt đầu tan rã. Tuy Phù Kiên bị DiêuTrường thuộc tộc người Khương giết chết, nhưng nguyên nhân chính của sự sụp đổcủa nhà Tiền Tần là do cuộc khởi nghĩa phục quốc của người Sabir.
Bởivậy, việc Đoàn Nghiệp đồng ý đưa tôi đi tìm Pusyseda thể hiện sức mạnh to lớncủa bói toán.