Rajivađứng cách đó không xa, vạt áo cà sa phất phơ bay, vẻ điềm nhiên, tự tại. Thư CừMông Tốn nhìn tôi, rồi lại nhìn Rajiva, chau mày kinh ngạc. Thừa lúc anh ta lơđễnh, tôi vùng thoát, chạy đến bên Rajiva.
ThưCừ Mông Tốn há miệng, ấp úng:
-Hiểu rõ bản thân, làm chủ bản thân, thì mọi suy nghĩ và hành động sẽ mang tínhPhật. Mọi sự trên đời đều do nhân duyên tạo nên. Rajiva và vợ chính là kết quảcủa nhân duyên đó.
MôngTốn cười nhạo, ánh mắt lộ vẻ coi thường không giấu giếm:
-Chỉ viện vào hai chữ “nhân duyên” mà cho phép mình đắm chìm trong thế giới lưuly kỳ ảo, pháp sư làm vậy sao khiến chúng sinh tin phục được!
Rajivahiền hoà cất giọng:
-Nhìn thẳng vào cái “không” và cái “có”, thấu hiểu nó nhưng không lệ thuộc vàonó, cũng như không bận lòng vì nó. Vạn vật trong trời đất đều do nhân duyên màra và đều tồn tại hai mặt “có” và “không”, “thực” và “không thực”, đó là bảnchất và là hình tướng của hết thảy sự vật, hiện tượng. Nếu có thể thấu suốt mọisự “có” và “không”, thì sẻ như sen kia trong bùn lầy, sống giữa thế nhân thường tục mà vẫn giữ được đạo hạnh thanh cao, điềm tĩnh trước sự sống chết, thảnnhiên trước nỗi nhục vinh.
Gươngmặt lạnh lùng, đầy vẻ khinh khi của Mông Tốn đã phần nào thay đổi, trầm tư mộtlát, anh ta đẩy ánh mắt dò xét về phía tôi, gật gù:
-Sống giữa thế nhân thường tục mà vẫn giữ được đạo hạnh thanh cao, điềm nhiêntrước sự sống chết, bàng quan trước nỗi nhục vinh. Pháp sư quả là người uyênbác, thâm thuý, chả trách ngài sống giữa thế tục mà vẫn giữ được Phật tâm, MôngTốn hôm nay đã được mở mang rất nhiều! Tôi khá bất ngờ. Mông Tốn quả nhiên làngười tinh thông văn sử, nhạy bén, linh hoạt, khác hẳn những người Hung Nô vốnưa dùng vũ lực để trấn áp kẻ khác. Có lẽ vì vậy mà Nam Thành, Đoàn Nghiệp và cảLữ Quang đều kiêng nể anh ta.
Chuyệntrò đãi bôi thêm đôi câu, Rajiva bèn cáo từ Mông Tốn. Đôi mắt sắc lạnh của MôngTốn không buông tha cho tôi, vẻ thăm dò, xét nét chiếu ra từ đó khiến tôi cảmthấy khó chịu. Rajiva đưa tôi về nơi ở, quan sát xung quanh không có ai mới làmmặt nặng nhẹ với tôi:
-Ngải Tình, đừng gây sự với những người đàn ông như thế nữa!
-Em có gây sự đâu...
Tôiấm ức, cả hai lần đều không phải do lỗi ở tôi kia mà! Mông Tốn cũng chỉ muốnđóng kịch, chỉ là không may đối tượng lại là tôi mà thôi.
Sắcmặt Rajiva rất khó coi, chợt nhớ tới màn thân mật mà Mông Tốn cố ý diễn khinãy, tôi bỗng chột dạ:
-Rajiva... sự việc không phải như chàng thấy đâu. Em và người đó hoàn toàn khôngcó...
-Ngải Tình!
Chàngnhẹ nhàng ngắt lời tôi.
-Nàng là vợ ta, sao ta có thể nghi ngờ nàng được! Trong lòng không khỏi lo lắng,tôi làu bàu:
-Nhưng sao chàng vẫn khó đăm đăm như vậy?...
Rajivakhó nhọc ngồi xuống, vẻ mặt mỏi mệt, đưa tay với ấm trà:
-Ngải Tình, Lữ Quang không chịu mở kho phát lương thực.
Thìra là vì chuyện này. Tôi thở phào, rót trà cho chàng:
-Vì sao? Lẽ nào ông ta không hiểu rằng, người dân đói khát cùng cực sẽ gây loạnư? Nếu chuyện đó xảy ra thì có lợi gì cho ông ta?
-Ông ta hiểu chứ.
Chàngthở dài nặng nề, hai hàng lông mày xô lại, giọng buồn bã:
-Thái thú Tửu Tuyền là Tống Hạo, Thái thú Nam Đô là Sách Phán, Thái thúTây Bình là Khang Ninh và còn cả kẻ từng trốn chạy trước đây là Vương Mục, đềuđã dấy binh làm phản. Lữ Quang xưng vương chưa đầy hai tháng mà quân phản loạnđã nổi dậy khắp nơi, ông ta muốn trữ lương thực dành cho đánh trận. Bộ lạc ThốcPhát, người Tiên Tì ở Hà Tây, bộ lạc Thư Cừ, người Hung Nô ở Lô Thủy dẫn theomấy vạn bộ tộc đến xin hàng Lữ Quang, một trong những điều kiện màhọ đưa ra là lương thực. Lữ Quang đã đồng ý cấp lương thực để vỗ về họ. Trongmắt ông ta, nạn dân không đáng để quan tâm. Vẻ mặt chàng nhuốm màu u ám, khuônngực căng đầy nỗi bi phẫn.Với tính khí của chàng, chắc rằng trong buổi chầu hômnay, đã lại căng thẳng với Lữ Quang. Tôi vừa nhẹ nhàng mát-xa huyệtthái dương cho chàng, vừa rủ rỉ:
-Lữ Quang không chịu cấp lương thực thì chúng ta sẽ tự giải quyết vậy. Tạm thờihãy sử dụng tiền bạc mà chúng ta có để cứu trợ cho nạn dân, sau đó sẽ nghĩ cáchthuyết phục các hộ giàu có trong thành quyên góp ủng hộ.
Chànggật đầu, quay lại nhìn tôi:
-Ngày mai ta sẽ gắng thuyết phục văn võ bá quan trong triều.
Chàngnắm tay tôi, ánh mắt rạng rỡ:
-Ngải Tình, đừng để bất cứ nạn dân nào phải chết đói.
Tôisững sờ, điều này là không thể. Nhưng mà...
Tôigắng gượng ngẩng đầu, trong lòng như có một tảng đá đè lên.
Saukhi dọn dẹp tinh tươm, ngôi miếu hoang trở thành điểm cứu đói lâm thờicủa tôi. Hàng ngày, Hô Diên Bình và Đoàn Sính Đình đều đến giúp tôi một tay. HôDiên Bình lo tổ chức đám thanh niên để đảm bảo nạn dân duy trì trật tự. Anh tatừng làm quan, nên chỉ đạo đâu ra đấy. Mộ Dung Siêu ngày ngày bám rịt lấy tôi,giúp tôi chia thực phẩm cho đám đông nạn dân. Lúc rảnh rỗi, chú nhóc đòi tôicho chơi trò oẳn tù tì hoặc kể chuyện Lưu Bang và Hạng Vũ. Bài hát “Ngủ ngoan,bé yêu” lại được dịp phát huy tác dụng.
Tôithấy mình rất có duyên với trẻ con, có lẽ vì tôi không bao giờ áp đặt hoặc rauy với chúng, tôi lại biết nhiều trò chơi mà chúng yêu thích. Tuy mới batuổi, nhưng vì phải trải qua quá nhiều khổ nạn dọc đường lưu lạc, biểu cảm trêngương mặt của cậu nhóc nom già dặn hơn con trai Cầu Tư của Pusyseda rất nhiều.Nhưng dù sao nó vẫn chỉ là một đứa trẻ, ham chơi, ham vui. Hô Diên Tĩnh hơn MộDung Siêu khoảng năm tuổi, nhưng giống như tên gọi của mình, cô bé lúc nào cũngbẽn lẽn, trầm tính, ngày ngày lẳng lặng đứng nhìn tôi và Mộ Dung Siêu chơi đùacùng nhau, rất ít khi tham gia.
Thờigian đầu, mỗi ngày chúng tôi phát thực phẩm một lần, mỗi nạn dân được nhận mộtbánh bao. Mấy ngày sau, tôi mới nhận thấy cần phải tiết kiệm, không thể tiếptục tiêu tiền như nước, tôi quyết địnhh mua gạo kê và cao lương về nấu. ĐoànSính Đình cùng một vài chị em bắc bếp trong miếu hoang nấu cháo kê, cháo caolương, bỏ thêm ít rau và muối trắng vào làm gia vị. Tuy không ngonmiệng nhưng có thể no bụng. Mục tiêu của tôi là không để ai phảichết đói.
Nhưngtôi lo lắng không biết chúng tôi phải dùng tiền của mình để chống đỡ đến khinào. Mùa đông đang đến gần, dân chạy nạn ngày một đông, tính sơ sơ cũng phảihàng vạn người. Cũng may Rajiva đã thuyết phục được một số quan chức quyên gópủng hộ, tuy không được nhiều, nhưng cũng giúp cầm cự được một thời gian. Cóđiều, đến nay vẫn chưa có một “Mạnh Thường Quân” tiền của dồi dào nào chịu đứngra chống đỡ. Tôi nghĩ tới một người. Sau khi bàn bạc với Rajiva, tôi đã xuấthiện trước cổng dinh cơ bề thế nhất thành Guzang.
Trêntường nhà treo những bức tranh thuỷ mặc vẽ cảnh sơn thuỷ hữu tình,một tấm bình phong độc đáo, bàn ghế chạm khắc tinh xảo, phòng khách được sắpđặt và trưng bày rất mực tinh tế, trang nhã, quả không hổ danh là gia đình phúhộ số một ở Lương Chân. Điều khiến tôi chú ý chính là bộ bàn ghế của gia đìnhnày. Nếp sống của con người thời đại này cũng giống thời Hán, thường ngồi xếpbằng trên chiếu. Nhưng Lương Châu nằm ở mạn Tây Bắc của Trung Nguyên, chịu ảnhhưởng của văn hoá Tây vực, nên nơi đây bắt đầu lưu hành các đồ dùng có chân caonhư bàn, ghế tựa, ghế băng.
Tôiđang mải quan sát bằng con mắt nhà nghề thì một người đàn ông trung niên dángvẻ nho nhã bước vào, ánh mắt sắc bén quét qua tôi, lịch thiệp cúi chào:
-Tại hạ chính là Lý Cảo, phu nhân đây hẳn là vợ của đại pháp sư lừng danh Tâyvực – Kumarajiva? Không biết phu nhân tìm ta có việc gì?
Giọngnói thâm trầm, trang phục kiểu cách, bộ ria tỉa tót khá cầu kỳ. Gương mặt sángsủa, chính trực, cử chỉ lời nói nho nhã, lịch duyệt. Người đàn ông nàycũng đang ở độ tuổi của Rajiava, cơ thể săn chắc vạm vỡ, có thể thấy, anh tarất chăm chỉ tập luyện võ nghệ.
-Thiếp tôi không mời mà đến, xin Lý công tử thứ lỗi.
Tôicúi người chào hỏi, sau đó đi thẳng vào vấn đề:
-Thiếp tôi đến đây để thương lượng với Lý công tử về việc cứu trợ nạn dân.
Anhta không trả lời ngay, mà mời tôi ngồi, rồi sai người hầu rót trà. Anh ta từtốn nhấp một ngụm trà, rồi mới quay sang tôi, nói:
-Nhiều ngày qua, pháp sư và phu nhân đã dốc toàn bộ của cải, tài sản, bỏ cônglập ra điểm phát chẩn cứu đói, công đức của pháp sư lan truyền khắp nơi trongthành Guzang, tại hạ biết tiếng đã lâu, trong lòng muôn phần cảm phục. Tại hạtài hèn sức mọn, nhưng cũng muốn tận tâm tận lực cứu giúp bà con nạn dân. Cóđiều, chỉ với một mình sức lực của tại hạ sẽ chỉ như muối bỏ bể. Vả lại, vuaLương đang lo dẹp quân phản loạn, chẳng màng chuyện cứu đói cho dân, dù tại hạcó ra sức cống hiến, cũng chẳng ai biết đến mà tán thưởng...
Anhta ngừng lại, nhấp thêm một ngụm trà, vậy là tôi đã hiểu. Đối với anh ta, việccứu đói này chẳng qua chỉ là một cách bỏ vốn để kinh doanh lợi ích chính trị,anh ta là một thương gia kiêm chính trị gia điển hình, luôn đặt tiền vốn và lợinhuận lên bàn cân để đong đo, tính toán. Tôi mỉm cười, chậm rãi nói:
-Nếu thiếp tôi nhớ không nhầm, thì Lý công tử chính là hậu thế của Phi tướng quânLý Quảng đời Hán, người mà dân Hung Nô chỉ nghe tiếng đã kinh hồn bạtvía? Tôi biết anh ta không chỉ có vị tổ tiên lừng danh thiên cổ - Lý Quảng. Ôngnội của anh ta từng là tướng quân, là hầu tước của Trương Quỹ, nhà Tiền Lương.Cha anh ta cũng rất nổi tiếng, tiếc là mất sớm, Lý Cảo mồ côi cha từ khi còntrong bụng mẹ. Nhưng cũng không thể so sánh với hậu thế của anh ta. Bởi vì hậuthế nhà họ Lý, mấy trăm năm sau đã gây dựng nên một triều đại huy hoàng nhấttrong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc – nhà Đại Đường[1].Nhắc đến tổ tiên, Lý Cảo không ngăn nổi nụ cười tự hào:
[1]Vua Lý Uyên, người lập ra triều đại nhà Đường vốn tự xưng là cháu đích tôn đờithứ 7 của Lý Cảo. Tuy nhiên giới học thuật đến nay vẫn chưa khẳng định đượcđiều này.
-Tại hạ chính là cháu đích tôn đời thứ mười sáu của Phi tướng quân Lý Quảng. Vàođầu đời Hán, tổ tiên ta nhận lệnh đi chinh phạt người Khương ở LũngTây, không may tử trận. Con cháu cùng nhau kéo về Lũng Tây chịu tang và an tángngười tại Lũng Tây. Sau đó, cả gia đình đã di cư đến đây, tính đến nay đã đượchơn bốn trăm năm.
Tôigật đầu, tiếp lời:
-Tướng quân Lý Quảng chinh chiến cả đời nhưng không thoả nguyện, vì ngàikhông được phong hầu. Sau cuộc bại trận năm sáu mươi, vì không muốn phải chịunỗi nhục xét xử, ngài đã tự vẫn, thật xót xa. Có điều...
Tôingừng lại, anh ta trở nên hiếu kỳ, hai tay chắp lại: - Tại hạ xin được rửa tailắng nghe ý kiến của phu nhân.
-Thiếp tôi nói lời thẳng thắn, có phần mạo phạm, xin công tử bỏ quá cho!
Tôikhẽ cúi người.
Xétthấy anh ta không có phản ứng gì gay gắt, tôi liền tiếp tục:
-Tướng quân Lý Quảng yêu lính như con, luôn gương mẫu đi đầu trongmọi trận đánh, khiến binh sĩ tâm phục mà xả thân vì ngài, uy danh của ngài lẫylừng trong quân đội. Tiếc thay, ngài quá ư tự mãn, không giỏi mưu lược, tuyngài là bậc anh hùng, dũng mãnh, nhưng không phải là một vị chỉ huy tài ba.Ngài lại có khuyết điểm là lòng dạ hẹp hòi, thường lấy việc công trả thù riêng,ngài lại là người liều lĩnh, ưa mạo hiểm.tính cách ấy tuy có thể giúp ngàilập nên kỳ công, nhưng cũng dễ khiến ngài thảm bại. Và điều đáng tráchnhất ở ngài là sự cố chấp, không tuân theo mệnh lệnh, nên không được lòngthượng cấp, đặc biệt ngài bị đại tướng quân Vệ Thanh và Hán Vũ Đế ghét bỏ. LýQuảng không được phong hầu phần vì số phận trêu ngươi, nhưng phần cũng do nhữngsai lầm của bản thân ngài.
Tôivừa nói vừa quan sát. Anh ta chứng như không nhẫn nhịn nổi, mặt mày sa sầm,định lên tiếng, nhưng lại thôi. Nhấp thêm một ngụm trà, chỉ một lát, vẻ mặt anhta đã trở lại trạng thái bình thường, khẽ gật đầu:
-Phu nhân phân tích rất sâu sắc, tại hạ đã được mở mang rất nhiều! Tôi thầm thánphục con người này, anh ta quả nhiên là người làm nên nghiệp lớn, trầm tĩnh,sâu xa khó đoán, nhưng cũng rất thức thời, ứng xử đúng mực, khôn khéo. Sử sáchmô tả anh ta là một người văn võ song toàn, kết giao rộng rãi với những ngườinổi tiếng, tính tình hiền hoà, sâu sắc. Khi Lý Cảo còn rất trẻ, nhiều ngườikhẳng định, ngày sau anh ta sẽ thành tài. Trong giai đoạn mà nhà Tiền Tần vẫncòn sự thống trị của Lữ Quang, Lý Cảo buộc phải ngậm ngùi chôn vùi tuổi thanhxuân trong suốt nhiều năm tháng bất đắc dĩ, đối với anh ta, sự chịu đựng đó hẳnrất đau khổ.
-Lý công tử không vì những lời ngoa ngôn của thiếp tôi mà nổi trận lôi đình,công tử quả là người đại lượng, chả trách danh tiếng của công tử nổi như cồn,chỉ tiếc là...
Tôiliếc nhìn anh ta. Tôi không thể hù doạ một người có tham vọng và thận trọng nhưanh ta bằng những quẻ bói giống như với Đoàn Nghiệp. Nếu muốn anh ta tìnhnguyện rút tiền cứu trợ nạn dân, tôi phải phân tích thiệt hơn, phải thuyết phụcanh ta bằng lí lẽ về hướng phát triển của lịch sử và tâm nguyện của người dân.
-Chỉ tiếc điều gì vậy?
Anhta nhướng mày, giọng nói vẫn giữ nguyên độ trầm tĩnh. Tôi mỉm cười, dõng dạc:
-Cuộc đời bi kịch của tướng quân Lý Quảng không khỏi khiến người ta ngậm ngùitiếc nuối, nhưng Lý công tử hoàn toàn có thể rút kinh nghiệm từ bài học củangười đi trước để chuẩn bị cho tương lai của mình. Công tử là người sáng suốt,giàu tham vọng lại giỏi mưu lược, nếu nhà Tiền Lương của họ Trương vẫn tồn tại,với xuất thân danh gia vọng tộc, chắc chắn công tử sẽ được phong hầu phong tướcgiống các bậc tiên tổ. Tiếc thay, họ Lữ kia thừa cơ nhà Tần đại loạn, chiếm lấyLương Châu. Nhà họ Lý lại chưa từng có công lao gì với họ Lữ, nên cha con LữQuang đương nhiên không xếp họ Lý vào hàng tâm phúc. Văn ôn võ luyện, mongthành tài để được giúp sức cho bậc đế vương, đó vốn là khát vọng của cácđấng nam nhi. Có điều...
Tôicố ý ngừng lại, thong thả thưởng trà. Đến lúc này thì Lý Cảo dường như đã hếtkiên nhẫn, đổ người về phía trước, giọng thành khẩn:
-Xin phu nhân chỉ giáo!
Tôinhìn thẳng vào mắt anh ta, hạ thấp giọng:
-Có điều, nếu bậc đế vương ấy tài hèn đức mọn, sớm muộn cũng sẽ làm mất lòngdân. Lữ Quang là kẻ đa nghi, bạo ngược, đám con cháu của ông ta lại càng ngỗnghịch, hung hãn. Nếu công tử nuôi hy vọng một ngày kia họ Lữ sẽ thu dụng nhântài, thì e là công tử sẽ phải thất vọng. Công tử đã gần bốn mươi tuổi, tuy sởhữu khối tài sản khổng lồ, nhưng lại không biết tận dụng thời kỳ loạn lạc nàymà gây dựng cơ nghiệp, công tử không thấy đáng tiếc hay sao?
Ánhmắt anh ta lộ vẻ kinh ngạc, nhìn tôi trân trân, nhưng sắc mặt vẫn không hề biếnđổi. Tôi khẽ sáp lại gần anh ta, hạ thấp giọng hơn nữa:
-Công tử cứu trợ nạn dân, cần chi tính toán chuyện có được tiếng tốt, lọt vàomắt xanh của ai đó không. Quyên góp làm từ thiện chẳng phải là một cách thuphục lòng dân, đặng phục vụ cho việc gây dựng nghiệp lớn sau này đó sao?
Mườinăm sau, Lý Cảo hưởng ứng cuộc nổi dậy chống lại Lữ Quang của Đoàn Nghiệp vàThư Cừ Mông Tốn, với mục đích tìm kiếm cơ hội. Anh ta được Đoàn Nghiệp phong tước Thái thú Đôn Hoàng. Nhưng Đoàn Nghiệp tài mỏng, không khốngchế nổi Lý Cảo, để cho thế lực của họ Lý ở Đôn Hoàng ngày càng lớn mạnh. Và rồivào năm 400 sau Công nguyên, Lý Cảo tự lập mình làm Lương công, sử gọi là nhàTây Lương, một trong mười sáu nước thời Thập lục quốc. Khi ấy Lý Cảo đã nămmươi tuổi.
Anhta đứng phắt dậy, nhìn tôi trừng trừng, khuôn ngực phập phồng. Tôi nângtách trà lên, nhấp một ngụm, điềm tĩnh đón lấy ánh mắt khó đoán của anh ta:
-Đây chỉ là nội dung câu chuyện phiếm của pháp sư và tôi, có chỗ nào không phải,xin công tử bỏ quá cho!
LýCảo nhìn tôi hồi lâu, trịnh trọng thi lễ:
-Chả trách phu nhân có thể bỏ ngoài tai những định kiến của người đời, kết duyêncùng vị cao tăng. Trí tuệ và sự hiểu biết của pháp sư thật sâu sắc. Nơi này taivách mạch rừng, nếu phu nhân tin tưởng tại hạ, xin mời theo tại hạ vào nhàtrong bàn chuyện.
Tôihân hoan rời khỏi phủ họ Lý, đi thẳng tới điểm xuất phát cháo cứu đói. Nạn dânphần lớn đến từ Đôn Hoàng. Tửu Tuyền, chính là vùng đất mà ngày sau LýCảo cát cứ, xưng vương. Cha con Lữ Quang là những kẻ vô đạo, khôngcó bất cứ động thái nào cứu trợ nạn dân, sớm muộn cũng sẽ mất đi sự tín nhiệmcủa nhân dân. Lúc này dốc sức làm việc thiện sẽ là một dịp tốt để mua chuộclòng dân, chuẩn bị cho cuộc phản loạn ngày sau. Lý Cảo hiểu rõ điều này, nêntôi chỉ nói vài câu, anh ta đã gật đầu đồng ý cấp lương thực cứu trợ. Sau khibàn bạc các công việc cụ thể liên quan đến việc phát chẩn, anh ta đã yên tâmgiao phó toàn quyền cho tôi.
Đangbước đi hoan hỉ, bỗng tôi nghe thấy tiếng gọi từ phía sau:
-Công chúa!
Kểtừ lúc đến Guzang, trừ những người cùng đi với chúng tôi, không ai gọi tôi làcông chúa. Quay đầu lại, tôi nhận ra Đỗ Tấn trong bộ áo giáp sắt, cùng một toántuỳ tùng đang rảo bước về phía mình. Có vẻ như ông ta lại chuẩn bị xuất chinh.
-Tôi đang đi tìm công chúa, không ngờ gặp được ở đây. Tôi mời công chúa một táchtrà được không?
ĐỗTấn lịch sự cúi chào tôi, bộ giáp sắt hắt lên những tia sáng lạnh sắc.
Chúngtôi cùng bước vào một quán trà. Đang thời kỳ thiên tai, nên khách khứa vắng vẻ,chúng tôi chọn một buồng dành cho thượng khách và ngồi xuống chiếc bàn kê cạnhcửa sổ. Bộ râu quai nón rậm rạp trên gương mặt thân thiện, giọng nói của Đỗ Tấnrất mực chân thành: - Được biết pháp sư và công chúa dốc toàn bộ tài sản cứutrợ thiên tai, tôi vô cùng khâm phục và lấy làm hổ thẹn.
Tôikhiêm tốn đáp lời, trong lòng không khỏi băn khoăn, vì sao Đỗ Tấn lại muốn gặpriêng tôi. Ông ta tươi cười đôn hậu, lấy ra một túi nhỏ đặt vào tay tôi:
-Đây là chút lòng thành của tôi, mong rằng có thể giúp được pháp sư.
Tôinhanh nhẹn cảm tạ và đón lấy túi ngân lượng nặng trình trịch.
-Còn đây là chìa khoá căn nhà mà tôi mua được ở khu phía Tây thành Guzang. Tuykhông rộng lắm, nhưng đồ đạc trong nhà đầy đủ cả.
Ôngta rút ra một chùm chìa khoá, đặt trước mặt tôi.
-Tôi chuẩn bị lên đường chiến đấu, không biết ngày nào trở về. Nếu pháp sư vàcông chúa không chê, tôi xin giao căn nhà cho hai vị quản lý giùm.
Tôilấy làm khó hiểu, Lữ Quang buộc chúng tôi phải sống trong cung kia mà, vìsao ông ta lại tặng căn hộ cho chúng tôi?
Nhưthể đọc thấy những băn khoăn trong mắt tôi, Đỗ Tấn thở dài:
-Trong buổi chầu hôm nay, nhà vua ban lệnh phân phối lương thực cho trận đánhdẹp quân phản loạn lần này, viên quan phụ trách kho lương báo cáo rằng, trongkho vẫn còn một lượng lương thực dư thừa. Pháp sư nghe vậy đã yêu cầu nhà vuaphát chẩn cứu trợ thiên tai. Nhưng nhà vua không chịu, nên hai người đã xảy ratranh chấp kịch liệt. Trong lúc tức giận, nhà vua đã đuổi pháp sư ra khỏi cung.
Tôihoảng hốt:
-Pháp sư có sao không? Ngài bây giờ ở đâu?
-Nhà vua nổi trận lôi đình, nhưng sau khi nghe lời khuyên giải của bá quan vănvõ, ngài chỉ ra lệnh cho pháp sư dọn ra khỏi cung, từ nay không được can dựviệc triều chính nữa. Có lẽ lúc này pháp sư đã quay về nơi ở để thu dọn đồ đạc.
Tôithở phào, nhìn chùm chìa khoá đặt trên bàn, do dự.
ĐỗTấn chắp tay cung kính, giọng nói thành khẩn:
-Đỗ Tấn được pháp sư và phu nhân giúp đỡ nhiều lần, từ lâu đã muốn được báo đáp.Nhưng nếu giao chìa khóa trực tiếp cho pháp sư, với tính cách của ngài, e làngài không chịu nhận, nên tôi đành đến tìm công chúa.
Ôngta đẩy chùm chìa khoá về gần phía tôi hơn nữa, chòm râu rung rung:
-Phật pháp ở Guzang không mấy phát triển, trong thành chỉ có vài ngôi miếu nhỏ.Với thân phận cao quý như pháp sư, không thể sống ở những nơi như vậy. Tiền bạccủa hai vị, xin hãy dành để cứu trợ cho nạn dân. Ngẫm nghĩ một lát, tôi nhậnlấy chùm chìa khoá, không quên bày tỏ lòng biết ơn. Đỗ Tấn nói đúng, với tínhcách cao ngạo của mình, Rajiva sẽ không chịu nhận món quà này. Nhưng chúng tôiphải dành tiền để làm việc quan trọng khác, không thể bỏ ra một khoản lớn đểmua nhà được.
Hômđó, sau khi gặp Đỗ Tấn, tôi đến thẳng điểm phát chẩn, giao việc cho Hô DiênBình và Đoàn Sính Đình, đồng thời thông báo với họ tôi đã tìm được nguồn tàitrợ dồi dào, ngày mai sẽ có nhiều lương thực cho nạn dân. Sau đó tôi vội vã trởvề.
Rajivađang thu dọn hành lý, y phục đã được trút từ tủ quần áo xuống và bày la liệttrên giường. Chàng chau mày căng thẳng, chắc là đang suy nghĩ điều gì lung lắm.Những bộ áo quần đã gấp một lần, lại tháo tung ra, cứ thế hồi lâu mà vẫn khôngmón nào ra món nào. Tôi bước tới, đỡ việc thay chàng. Chàng không quen làm việcnhà, để chàng đụng vào, chỉ càng thêm rối.
Tôikể qua loa với chàng về căn nhà mà Đỗ Tấn giao cho chúng tôi, và rằng, chỉ cầnmang theo đồ dùng thiết yếu là chúng tôi có thể dọn đến đó ở được. Tôi vừa thudọn, vừa động viên chàng, rời khỏi hoàng cung cũng là một chuyện đáng mừng. LữQuang đang phải lo đối phó với quân phản loạn, không có thời giờ để mắt đếnchàng nữa, chàng có thể tự do làm những việc chàng thích.
Chờkhi tôi đã sắp xếp mọi thứ ổn thoả, tâm trạng chàng cũng đã khá hơn, sắc mặttươi tắn hơn nhiều. Chúng tôi ra khỏi cung, ngồi lên chiếc ngựa mà Đỗ Tấn chuẩnbị sẵn, lên đường đến nhà mới của chúng tôi.