Đức Phật Và Nàng

Chương 69: Doanh trại nạn dân



Hômsau, Rajiva đứng bên ngoài cửa cung chờ đợi suốt một ngày. Lữ Thiệu, khi ấy làThế tử, được Lữ Quang giao nhiệm vụ cai quản Guzang, đã không xuất đầu lộ diện.Vì đứng quá lâu trong tuyết, bàn chân Rajiva xuất hiện vệt lở loét dài do lạnhcóng. Buổi tối, phải ngâm chân trong nước nóng, vừa ngứa vừa xót, đổ cả mồ hôi.Tôi bôi gừng cho chàng mà lòng xót xa, nhưng chàng vẫn gượng cười,nói với tôi rằng chàng không sao.

Nhưthường lệ, hôm đó chúng tôi đi về hướng cổng thành phía Nam để đến quảđồi ngoài thành Guzang, nơi tập trung đông dân chạy nạn nhất. Hô Diên Bình vàcác đệ tử của Rajiva khoác lên vai hơn chục tải lương thực. Sau hôm nay, Rajivakhoác lên vai hơn chục tải lương thực. Sau hôm nay, chúng tôi sẽ không tiếp tụccứu đói được nữa. Trong nhà kho hiện chỉ còn năm tải gạo kê, là những tải lươngthực cuối cùng mà tôi phải tranh đấu với Rajiva để giữ lại.

Chúngtôi đến cổng thành và không khỏi ngạc nhiên khi thấy cánh cổng đóng chặt, hàngtrăm binh lính đang đi tuần, trên cổng dán cáo thị, rất nhiều người chen chânđứng dọc, nên tôi không nhìn rõ họ viết gì. Chợt thấy một người từ đám đôngbước ra, tôi vội vàng đến hỏi.

-Họ nói dân chạy nạn gây mất ổn định trật tự, kể từ hôm nay đóng kín cổng thành,đuổi tất cả nạn dân ra ngoài.

Ônglão chống gậy, lắc đầu thở dài:

-Trời đông giá buốt, quan nha ban bố lệnh này khác nào muốn lấy mạng những ngườidân khốn khổ ấy. Nhưng ai còn tâm trạng đâu mà nghĩ cho họ nữa, ngay cả bảnthân chúng ta cũng không biết khi nào sẽ chết đói nữa là…

Tôisững sờ, mệnh lệnh này chắc chắn do Lữ Thiệu ban bố. Sao hắn có thể vô lươngtâm đến vậy! Bảy, tám vạn mạng người, lại đều là người già, phụ nữ và trẻ em,lẽ nào bỏ mặc họ chết đói chết rét ngoài kia? Trong cơn phẫn uất, tôithấy Rajiva bước về phía cổng thành, lớn tiếng yêu cầu bọn họ mở cổng. Mấy tênlính tỏ vẻ cung kính với chàng, nhưng không tên nào dám trái lệnh mà tự ý mởcổng. Tôi bước tới, kéo tay áo Rajiva, lắc đầu ra hiệu cho chàng. Chàng giận dữlùi lại. Sau lưng chúng tôi, những tiếng kêu la ai oán vang lên. Hàng trăm nạndân bị xua đuổi, bước thấp bước cao, lảo đảo, liêu xiêu.

Cánhcổng kèn kẹt nặng nhọc mở ra, cầu treo hạ xuống, nạn dân bị quan binh dùng roida xua ra ngoài cổng thành. Cảnh tượng thảm thương ấy khiến cư dân của Guzangcũng phải ngoảnh mặt đi vì xót xa. - Thí chủ, vì sao nỡ nhẫn tâm như vậy?

Rajivalao đến giữ lấy chiếc roi da đang quất lên mình một người phụ nữ của viên línhnọ, nỗi bi phẫn đã dâng lên trong giọng nói phê phán quyết liệt.

-Thí chủ cũng có mẹ cha kia mà, nếu cha mẹ thí chủ bị người ta hành hạ như vậy,thí chủ có chịu nổi không?

Tênlinh ngơ ngác, sau đó thì hậm hực rụt tay về. Tôi và Rajiva cùng nhìn nhau, thởdài. Chàng hiểu ý tôi, nên gật đầu tán đồng. Trong tình hình này, không thểnặng lời với đám quân lính. Cách duy nhất là thuyết phục Lữ Thiệu hủy bỏ mệnhlệnh trên.

Đúnglúc ấy, có người đặt vào tay tôi một thứ gì đó. Sau phút ngỡ ngàng, tôinhận đó là một em bé chỉ chừng một, hai tuổi. Em được bọc trong những miếng vảirách nát đã bốc mùi, đôi mắt thẫn thờ, em nhẹ như một chiếc lá, dường như đãkhông còn sức để khóc nữa. Tôi vội đưa mắt kiếm tìm và thấy trong đám nạn dânđang bị lùa ra ngoài thành, một người phụ nữ trẻ, ngoái đầu lại nhìn tôi, gàokhóc:

-Xin phu nhân mở lượng hải hà, cứu lấy “cún con”[1] nhà tôi.

[1]Tên gọi thân mật ở nhà của trẻ em.

Tôiôm đứa bé, đuổi theo người phụ nữ:

-Được, tôi sẽ nuôi cháu giúp chị. Tôi sống ở con phố chính gần cổng phía Tây,chị cứ hỏi nhà của pháp sư Kumarajiva. Người phụ nữ chỉ biết khóc lóc, nhìn đứabé lưu luyến. Tôi bị ngăn lại trước cổng thành, đành với ra hỏi lớn:

-Chị tên là gì? Khi nào cổng thành được mở, tôi sẽ đến tìm chị.

-Tôi tên Tần Tố Nga, chồng tôi đã xung quân, tên là Ngụy Trường Hỷ. Chúng tôi làngười Liễu Viên ở Đôn Hoàng.

Đólà những gắng gượng sau cùng của người phụ nữ. Chị nhìn con lần cuối, nhữngtiếng gào thét cuối cùng lọt qua khe cổng tối tăm. Tôi kiễng chân, gắng đón lấylời chị:

-Nếu tôi và cha “cún con” đều chết cả, xin phu nhân với pháp sư hãy nhận nuôicon tôi…

Cổngthành rầm rầm đóng lại, cắt đứt lời nói của người phụ nữ. Bên ngoài, tiếng kêukhóc thảm thiết bắt đầu dậy lên, vượt qua bức tường cao dày, xuyên vào màng nhĩtôi. Đứa bé bị đánh thức, hai mắt mở to, khe khẽ khóc. Hai cánh tay nhỏ xíuchới với trong không trung, bắt được mấy sợi tóc lòa xòa của tôi, liền đút vàotrong miệng, cái miệng nhỏ xinh như phát ra một tiếng kêu mơ hồ: đói…

Chúngtôi trở về, ai nấy đều lặng lẽ. Về đến nơi ở, Rajiva nói rằng chàng phải đếngặp Lữ Thiệu, dặn dò chúng tôi ở nhà chờ chàng. Tôi gật đầu, mặc dù biết rằngkhả năng Rajiva thuyết phục được Lữ Thiệu hủy lệnh là rất mong manh. Nhưng tôibiết, Rajiva sẽ không bao giờ chịu từ bỏ khi mà chàng chưa thử. Tôi giao đứa bécho Đoàn Sinh Đình để chị ta cho bé ăn. Tiễn Rajiva ra ngoài cổng, tôi nghethấy tiếng gào khóc kêu la vẳng đến bên tai. Khoảng mấy trăm nạn dân bị đámlính lùng bắt được, đang bị áp giải về phía cổng thành.

Nghethấy những tiếng kêu la thảm thiết ấy, đôi mắt Rajiva như có lửa, chàng nắm chặttay, khuôn ngực phập phồng dữ dội. Sau đó chàng quyết liệt bước ra giữa đường,chặn đám người đó lại.

Tuyếtbắt đầu trút xuống sau một buổi sáng tạm nghỉ. Những bông tuyết trắng xóa baylà là trên chiếc áo bông đã sờn bạc của chàng, tan ra, thấm vào lớp áo màu nâusòng ấy. Chàng quàng chiếc khăn liền mũ mà tôi đan cho chàng, đứng giữa lớptuyết dày đã tích tụ hơn mười ngày qua, bóng chàng ngạo nghễ giữa không gian.

Tôikhông biết chàng định làm gì, nhưng bất luận chàng muốn làm gì, tôi là vợchàng, tôi phải đứng cạnh chàng. Nghĩ vậy, tôi vượt qua những tầng tuyết, đếnbên chàng, cùng chàng lấy thân mình chặn những kẻ coi mạng người như con sâucái kiến kia lại.

-Pháp sư, hạ quan làm việc theo lệnh, xin ngài đừng làm khó hạ quan.

Tênlính dẫn đầu bước ra, cúi chào Rajiva.

-Thí chủ định đưa họ đi đâu?

Rajivachắp tay lại, khẽ cúi người, dáng vẻ cung kính nhưng giọng nói sắc nét. - Thếtử ra lệnh đuổi tất cả đám dân lưu lạc ra ngoài thành, tránh gây nhiễu sự.

Rajivanghiêm nghị nhìn tên lính kia, cố ý kéo dài giọng:

-Vì sao thí chủ biết họ là dân lưu lạc?

Bốirối trước ánh mắt uy nghiêm của Rajiva, tên lính ấp úng:

-Thưa… pháp sư nói đùa chăng? Bọn họ không có hộ tịch, lại không phải cư dânGuzang, nên tất nhiên là dân lưu lạc rồi!

Rajivatiếp tục truy hỏi:

-Tướng quân Lữ Quang mới đến thành Guzang được bốn tháng, trong thời gian đó,ngài bận việc dẹp yên quân phản loạn, còn chưa kịp ổn định và phát triển thànhphố ngày. Tất cả những người theo ngài đến đây đều chưa có hộ tịch. Ta đến từTây vực, không phải người Guzang, lẽ nào ta cũng là dân lưu lạc?

-Điều này …

Tênlính ngắc ngứ không biết nói sao, cũng không dám nhìn thẳng Rajiva, vẻ kiêucăng đã xẹp hẳn xuống.

-Pháp sư đương nhiên không phải, ngài chỉ tạm thời chưa có hộ tịch thôi. Nhưngpháp sư có nơi cư trú, còn những người này không có.

Rajivabước lên phía trước, tiếp tục bắt bẻ: - Vậy nếu có chỗ ở thì họ sẽ còn là dânlưu lạc nữa đúng không?

-Có lẽ vậy…

Tênlính bắt đầu ngơ ngác ngó về phía sau, giọng nói yếu ớt.

Rajivanhìn tôi, hiểu ý chàng, tôi liền đi về và mở rộng cánh cổng nhà chúng tôi ra.

Rajivachắp hai tay lại, khóe môi nở một nụ cười:

-Thí chủ, họ đều là khách mời của ta, nơi ở của họ trong thành Guzang, chính làchỗ này.

Tênlính dẫn đầu há hốc miệng, nhìn Rajiva chằm chằm nhưng không nói được câu gì.Nhân lúc hắn còn đang ngỡ ngàng, tôi bảo tất cả những người dân lưu lạc kia vàotrong nhà. Họ tỏ ra ngạc nhiên hết sức, nhưng một lát sau thì chen nhau ùa vào,căn nhà của chúng tôi chật kín người.

-Thưa… thưa… pháp sư, ngài làm vậy, hạ quan biết ăn nói sao với quan trên? Tênlính bối rối, đứng ngây ra như phỗng. Tôi ra hiệu cho Hô Diên Bình đóng cổnglại, rồi đứng canh bên ngoài. Rajiva bước lại, đứng bên tôi.

Giữalúc căng thẳng ấy, bỗng có tiếng vó ngựa vang lên, một toán người ngựa đanghướng về phía chúng tôi. Khi họ đến gần, tôi nhận ra tên đi đầu chính là Thế tửLữ Thiệu. Hắn vốn chẳng có tài cán gì, nhưng vì là con trưởng, nên được lập làmThế tử. Lữ Quang vừa qua đời, hắn đã bị Lữ Soạn ép phải tự vẫn. Nhưng lúc nàyhắn đang đứng trước mặt chúng tôi, vẻ dương dương tự đắc vì vừa được lập làmThế tử.

Nhìnthấy kẻ đi bên cạnh Lữ Thiệu, tôi bỗng giật mình. Người thanh niên cao lớn cưỡicon ngựa màu mận chín ấy chính là Thư Cừ Mông Tốn. Anh ta không theo bác họ vàanh họ ra chiến trường, mà ở lại Guzang.

Tênlính ban nãy nhác thấy bóng Lữ Thiệu, vội vã bước tới bẩm báo, kể lể sự tình.Sau vài câu hỏi, Lữ Thiệu chau mày, nhảy xuống ngựa, bước đến trước mặt chúngtôi.

-Pháp sư, ta biết ngài có tấm lòng từ bi hỉ xả, nhưng đám dân xấu xa này khônglo làm ăn, ngày ngày chỉ biết ăn xin đầu đướng xó chợ. Thành Guzang đào đâu ranhiều lương thực đến thế mà bố thí cho bọn chúng? Giữ bọn chúng lại trongthành, nạn trộm cắp ắt sẽ hoành hành. Ta ban lệnh này, là vì nghĩ đến sự yên ổncủa cư dân thành phố.

-Thế tử, xin hỏi ngài, những người già, phụ nữ và trẻ em này đứng còn không đứngnổi, làm sao có thể ăn trộm ăn cắp, làm điều xằng bậy như ngài nói?

Rajivalạnh lùng nhìn thẳng vào mắt Lữ Thiệu, cằm rướn cao, giọng đầy phẫn uất:

-Thế tử chớ quên, những người cha, người con của những người này đã xung quân vàđang chiến đấu chống lại quân phản loạn. Thế tử đã không màng việc cứuđói, lại muốn xua đuổi người thân của những người đang liều mạng sống nơi satrường, để mặc họ tự sinh tự diệt. Lẽ nào Thế tử có thể nhẫn tâm chứng kiếncảnh xác chết đầy đường?

-Ta…

LữThiệu mặt mày đằng đằng sát khí, giơ cao roi ngựa.

-Pháp sư ngang nhiên chống đối mệnh lệnh của ta. Lẽ nào ngài muốn…

-Thế tử!

ThưCừ Mông Tốn ngắt lời Lữ Thiệu, cũng nhảy xuống ngựa.

Anhta bước đến bên cạnh Lữ Thiệu, chắp tay cung kình chào Rajiva, sau đóquay sang nói với Lữ Thiệu:

-Xin Thế tử bớt giận! Sao Thế tử không hỏi pháp sư, xem ngài có thể nuôi sốngngần này con người không?

-Ta có thể!

Giọngnói của chàng trầm hùng, quyết liệt.

-Đại sư Duy Ma Cật từng nói, chúng sinh đau ốm cũng giống như ta đau ốm. Chúngsinh vì bệnh tật mà qua đời cũng giống như ta vì bệnh tật mà qua đời. Ta nguyện học theo ngài Duy Ma Cật, còn sống ngày nào sẽ cứu giúp họ ngày ấy.

Khôngkhí yên lặng bao trùm tất thảy. Gió buốt như dao cắt, thổi bay nếp áo đã sờnbạc của chàng. Những bông tuyết theo gió đông ào ạt đổ xuống vai áochàng. Rajiva ngẩng cao đầu, gò má chàng tím tái vì giá rét, nhưng giữa vầngtrán cao vẫn toát lên vẻ nghiêm nghị, lẫm liệt. Chàng tựa như một đóa tuyếtliên thánh thiện, đang ra sức bảo vệ sự kiên trinh của tâm hồn.

LữThiệu hắng giọng phá vỡ không khí trầm lặng:

-Pháp sư thật là đần độn! Những kẻ già cả, yếu ớt này rất vô dụng, để bọn chúngsống chỉ tốn cơm gạo. Lương thực lúc này là quan trọng nhất, chúng chết càngnhiều, lương thực tốn càng ít.

Nhữnglời nói thiếu tính người ấy khiến tôi không thể nhẫn nhịn thêm nữa. Tên súcsinh này chết bởi tay anh em ruột thịt cũng đáng lắm. Bước lên phía trước, địnhphản kháng, Rajiva vội giữ tôi lại, khẽ lắc đầu. Nỗi phẫn uất như sóng cuộndâng trong mắt chàng, nhưng chàng đã kìm chế và giữ được bình tĩnh hơntôi.

MôngTốn đưa mắt với tôi đầy ẩn ý, anh ta ho khẽ một tiếng, kéo tay Lữ Thiệu, cangián:

-Pháp sư đã nói vậy, Thế tử còn bận tâm làm gì nữa, đằng nào thì không tốn lươngthực của Thế tử. Chúng ta còn nhiều nơi chưa tuần tra hết, Thế tử không nênlãng phí thời gian ở đây.

LữThiệu vẫn còn hậm hực, nhưng Mông Tốn đã ra sức kéo hắn ra đi. Lữ Thiệu lênngựa, thu quân, trừng mắt đe dọa chúng tôi, rồi tiếp tục tiến về phía trước.Mông Tốn cũng lên ngựa, trước khi quay đi, anh ta còn cố nhìn về phía tôi.Không hiểu sao, tôi cứ có cảm giác, ánh mắt anh ta nhìn mình có điều gì rất lạlùng. Đến lúc này tôi vẫn không rõ Mông Tốn là con người thế nào. Hôm nay có vẻnhư anh ta đã giúp chúng tôi nhưng tôi biết anh ta làm vậy chắc chắn không phảivì lòng tốt bỗng dưng trỗi dậy.

Cuộcxung đột kịch liệt ấy kéo theo một hệ lụy, đó là chúng tôi sẽ chẳng thể thuyếtphục Lữ Thiệu thu hồi mệnh lệnh. Hơn hai trăm ba mươi con người đang cùng trúngụ dưới mái nhà của chúng tôi. Hôm đó, vấn đề phải giải quyết đầu tiên là chỗngủ. Không có đủ chăn đệm, chúng tôi đem toàn bộ y phục định đem bán chia chonhững người quần áo rách nát. Mỗi phòng phải trải mười mấy tấm thảm dưới đất,nhà bếp cũng biến thành phòng ngủ. Những người khỏe mạnh hơn được bố trí nằmngoài hành lang. Ngay cả phòng của tôi và Rajiva cũng có rất nhiều người nằm.Tôi giữ ý, kéo màn giáo che chắn trước giường của mình.

“Doanhtrại nạn dân” với mật độ quá dày ấy, nếu ở vào thời hiện đại, chắc chắn khôngđạt tiêu chuẩn vệ sinh. Không khí trong nhà nồng nạc mùi hôi, nhưng điều khiếntôi lo lắng nhất là căn bệnh truyền nhiễm. Nếu có ai đó mắc bệnh truyền nhiễm,sẽ rất dễ lây lan trong môi trường này và khó lòng điều trị. Thường sau thiêntai, ôn dịch sẽ hoành hành, thời đại này lại không có vắc-xin phòng bệnh vàthuốc kháng sinh. Tôi nói lại những suy nghĩ đó với Rajiva, chàng bảo tôi đừnglo lắng, mùa thu mới là mùa dịch bệnh lây lan. Bây giờ đang là mùa đông, lạigiá rét nhường này, khó xảy ra nguy cơ truyền nhiễm. Chờ mùa xuân đến, sẽ nghĩcách xử lý. Tuy vậy, tôi vẫn kêu gọi những người phụ nữ đem toàn bộ y phục ragiặt giũ sạch sẽ và dọn dẹp tinh tươm nơi ăn chốn ở.

Giờđây không được ra khỏi thành, nên không thể đi kiếm củi, chúng tôi phải dựa vàosố củi dự trữ trong nhà kho. Để tiết kiệm, chúng tôi chỉ đốt lửa khi nấu cơm.Bao nhiêu con người chen chúc, vậy mà không khiến cho căn nhà ấm áp thêm chútnào. Trong kho vẫn còn hơn mười tải lương thực, tôi sắp xếp để Hô Diên Bình vàcả nhà Mộ Dung ngủ ở đó. Hô Diên Bình hiểu ý tôi, nên hàng ngày đều mang theochìa khóa nhà kho bên mình, hễ ra khỏi cửa là khóa lại. Không phải tôi thiếulòng tin vào những người dân chạy nạn kia, tôi chỉ lo, lúc đói khát cực độ,người ta sẽ làm những việc mà bình thường họ không bao giờ làm. Nhưng, số lươngthực này cũng chỉ đủ cung cấp cho ngần ấy con người trong vòng chưa đầy mườingày, sau đó thì sao? Còn ít nhất một tháng nữa mới hết mùa đông.

Tôiđã tìm cách rao bán tất cả những gì có thể bán được: sách của Rajiva, ngọc bộisư tử mà Bạch Chấn ban tặng, chiếc vòng vàng của Hoàng hậu Khâu Từ. Tôi thậmchí còn định đem những vật dụng thời hiện đại của tôi ra bán, nhưng Rajivakhông đồng ý, vì chàng không muốn thân thế của tôi bị lộ. Tôi lén đem cuốn sổghi tốc ký và bút chì đi bán, nhưng không ai thèm ngó ngàng đến. Vì có quánhiều người rao bán tài sản, những đồ đạc bằng vàng, bằng bạc hữu dụng hơn mấythứ dụng cụ thủ công tinh xảo kia. Tôi cười buồn nhìn mấy món đồ của 1650 nămsau, chúng chẳng giúp ích được gì lúc đói kém.

Dùcho nồi cháo của chúng tôi có loãng đến đâu, mười ngày sau, số lương thực trongkho vẫn cạn kiệt. Rajiva bắt đầu dẫn theo các đệ tử ra phố khất thực. Tôi làmột người Hán, nên trong quan niệm của tôi, ăn xin tức là đem lòng tự tôn némxuống đất và giẫm đạp lên, bởi vậy tôi không thể nuốt những thực phẩm cóđược từ việc khất thực.

Rajivathì khác, chàng nói rằng chàng là Bhikkhu, nghĩa là khất sĩ, khất sĩ là nhữngngười cầu Phật pháp nơi Phật tổ và khất thực chốn nhân gian[2]. Năm xưa Phật tổcũng ngày ngày mặc áo cà sa, tay mang bát sành vào thành Xá Vệ khất thực. Lòngtôi thắt lại khi thấy chàng và các đệ tử mang số thực phẩm ít ỏi về nhà vàocuối mỗi ngày. Tôi chia thức ăn này cho những người ốm đau bệnh tật, riêng tôi,không bao giờ đụng đến.

[2]Đức Phật và nàng, tập 1, trang 41.

Nạndân cũng muốn ra phố xin ăn, nhưng Rajiva ngăn cản. Vì chỉ cần bước ra khỏicánh cổng này, họ sẽ bị đuổi ra ngoài thành. Rajiva và các đệ tử vốn là nhà sư,nên ít nhiều họ vẫn được người ta tôn trọng. Mỗi khi trong thành có người quađời, Rajiva lại cử đệ tử của chàng đến tụng kinh siêu độ, mỗi lần như thế cũngđược bố thí vài chiếc bánh bao. Đệ tử của Rajiva giống hệt chàng ở sự cao ngạo,dù cho họ gầy đói đến mức chỉ còn da bọc xương, nhưng không bao giờ tham lam.Kể cả khi chỉ được bố thí một chiếc bánh bao, họ cũng đem về chia đều cho mọingười.

-Sư tôn, sư mẫu!

Tôivà Rajiva đang sắp xếp lại các tấm thảm, để có thêm chỗ nằm trong phòng chonhững người phải ngủ ngoài hành lang. Nghe tiếng gọi, chúng tôi đều ngẩng lên,đó là ba đệ tử của Rajiva. Hôm nay họ đến siêu độ cho lão phu nhân nhà họ Vươngvừa qua đời ở phía Đông thành Guzang. Họ thận trọng trao cho tôi gói đồ ăn bọcvải lụa. Tôi mở ra thì thấy bên trong là mấy miếng bánh cao lương đã thâm đen.

-Thưa thấy, trong tang lễ của lão phu nhân nhà họ Vương, chúng con nghe nói…

Vịsư trẻ mới mười tám tuổi, Badyetara nhìn chúng tôi ngập ngừng.

-Có chuyện gì vậy? Rajiva gạn hỏi. - Theo lệ thì nếu trong nội thành có ngườiqua đời, quan binh sẽ cho phép đưa ra ngoại thành an táng. Nhưng nhà họ Vương không dám đưa lão phu nhân ra ngoại thành, mà an táng ngay trongvườn nhà.

Tôibăn khoăn:

-Vì sao?

Gươngmặt của vị sư trẻ tuổi hiện lên vẻ bi ai, Badyetara cúi đầu khẽ đáp:

-Con nghe nói, ở ngoại thành, người chết vừa mới chôn xuống đất đã bị đàolên.

Tôithốt lên một tiếng thất kinh, rồi vội vàng bịt chặt miệng lại. Badyetara tiếptục kể: - Nạn dân ngoài ngoại thành đã bắt đầu ăn thịt người chết…

Rajivakhép mắt, quay đi, không muốn nghe tiếp. Đôi mày của chàng chau lại, một lúclâu sau mới nghe thấy tiếng thở dài u buồn của chàng.

Vàothời điểm giá buốt nhất, một giọt nước nhỏ xuống lập tức đóng thành băng, giữađêm thâu, tiếng kêu thương ai oán của những con người sắp chết vẳng đến bêntai, tựa như những mũi kim đâm vào tim, khiến trái tim co thắt dữ dội. Cứ nghĩđến câu nói của Badyetara tôi lại mường tượng ra cảnh, bốn bề là những con mắtnhấp nháy như bầy dã thú, đang chờ đợi người sắp chết trút hơi thở cuối cùng.Đói khát khiến người ta mất đi nhân tính, chỉ còn lại bản năng thú vật. Thờiđại này mới tăm tối làm sao, sự sống mới đáng sợ làm sao!

Nhữngtiếng gào khóc lúc to lúc nhỏ vang vọng suốt đêm, không kìm nổi cảm giác runsợ, tôi cứ chống mắt nằm nghe cho tới sáng. Bên cạnh, Rajiva vòng tay ômlấy tôi, nhưng chàng cũng đang run rẩy. Gối đầu lên cánh tay chàng tôi nghĩ,giá như có thể thiếp đi, sẽ không phải nghe những tiếng kêu thương nhức nhối,có thể phá nát thần kinh của con người ở ngoài kia, và cũng không phải nghe âmthanh réo rắt của cái bụng rỗng nữa. Trải qua nhiều đêm thức trắng, cuối cùngtôi cũng học được cách dỗ giấc ngủ giữa những thanh âm thê thảm của sự chếtchóc.

Rajivakéo tôi vào một ngõ nhỏ cạnh nhà, nhìn ra xung quanh không thấy ai, chàng cầmbàn tay loang lổ vết lở loét do giá rét của tôi đưa lên miệng hà hơi sưởi ấm.Lát sau, đặt tay tôi xuống, chàng vuốt ve gương mặt tôi, ánh mắt đầy lưu luyến.

Tôingạc nhiên, định hỏi thì thấy chàng hít một hơi thật sâu, như thể phải hạ quyếttâm lắm:

-Ngải Tình, nàng hãy trở về đi. Tôi giật mình, hốt hoảng: - Chàng, chàng bảo emvề đâu?

-Quay về thời đại của nàng, đừng tiếp tục ở đây chịu đói cùng ta nữa.

Những làn hơi trắng phả ra từ miệng chàng, cùng một nét cười ảm đạm.

-Không, em không về!

Tôigào lên, chàng vội che miệng tôi lại. Bàn tay chàng giá lạnh, mấy vết lở loéttrên mu bàn tay đã bắt đầu sưng tấy.

Chàngghé sát vào tai tôi, cất giọng dịu dàng:

-Hãy nghe lời ta, nàng tạm thời trở về đó, khi nào trận đói qua đi, nàng lại vềđây.

Chàngnghĩ vượt thời gian là một chuyến du lịch đơn giản ư? Chàng đâu biết tôi đãphải trả giá ra sao? Nước mắt tuôn trào, miệng vẫn bị giữ chặt, tôi chỉ còncách ra sức lắc đầu. Tôi vòng tay qua eo chàng, ngả người vào lòng chàng:

-Ngải Tình, có phải chia ly vĩnh viễn đâu mà nàng buồn đến vậy? Chàng dịu dàngôm lấy tôi, vuốt ve mái tóc tôi.

Tôivùi đầu vào lòng chàng, chàng gầy đi rất nhiều, những đốt xương trên vai đã lộra, tôi nhìn mà xót xa.

-Rajiva, em không thể đi, nếu ra đi, em sẽ không quay về được nữa…

-Vì sao? Nàng nói rằng, có một cỗ máy gì đó có thể đưa nàng trở về bất cứ giaiđoạn nào của cuộc đời ta kia mà?

Chàngôm lấy hai vai tôi, đôi mắt như hai luồng điện chiếu thẳng vào nơi sâu thẳmnhất của tâm hồn tôi:

-Ngải Tình, nàng giấu ta điều gì phải không?

Lòngbuồn rã rời, toàn thân như đóng băng. Nhưng tôi không thể để chàng biết nguyênnhân thực sự, tôi ấp úng:

-Thì… thì… cỗ máy đó vẫn đang trong giai đoạn thí nghiệm, lịch sử trải dài mấynghìn năm, rất có thể trong lần vượt thời gian tiếp theo, em sẽ không gặp đượcchàng.

Tôikéo tay chàng, nhìn sâu vào đôi mắt trong suốt của chàng, khóe môi run rẩy:

-Em không muốn mạo hiểm, em không thể xa chàng. Chàng hãy tin em, chúng ta sẽvượt qua được giai đoạn khó khăn này, nhất định như vậy! Chàng thở dài,lau nước mắt cho tôi bằng nụ hôn mềm ấm, rồi kéo tôi vào lòng. Trên đầu tôivang lên tiếng thở dài xen trong giọng nói trầm ấm:

-Ta đâu nỡ xa nàng…

Trongvòng tay chàng, tôi ngước mắt nhìn trời, mây đen vần vũ, tuyết lại bắt đầu rơi.Giữa nền trời tăm tối, những bóng tuyết trắng đã biến thành màu xám xịt, thờ ơrơi trên đôi vai gầy guộc của chàng. Giữa đất trời này, ngoài vòng tay củachàng, chẳng còn nơi nào ấm áp…