Đầutháng hai âm lịch, tức khoảng trung tuần tháng ba dương lịch, sau hơn mộttháng phong tỏa, cổng thành Guzang, cuối cùng cũng được mở. Cư dân trong thành,ai nấy mặt mũi xanh xao, héo hắt, bị dồn đứng ở hai bên đường để nghênh đónđoàn quân chống phản loạn của Lữ Quang trở về. Sau gần ba tháng trời khôngngừng rơi, băng tuyết đã tan chảy hoàn toàn trong tiết xuân ấm áp, để lộ ra vôsố rác rưởi la liệt khắp phố phường. Hôm qua, Lữ Thiệu đã đốc thúc quânlính thu dọn, nhưng không bằng cách nào xóa sạch được dấu vết của nạn đói trầmtrọng vừa qua.
Đoànquân của Lữ Quang được đón rước trong tiếng kèn trống inh ỏi, nhưng phía sau âmthanh náo nhiệt ấy là những gương mặt thẫn thờ, buồn thảm. Cờ bay phấp phới,dọn đường cho Lữ Quang chầm chậm tiến vào. Bên cạnh ông ta là đám con cháu LữSoạn, Lữ Hoằng, Lữ Long và Lữ Siêu, tên nào tên ấy vẻ mặt vênh vang, đắc ý. Sauđoàn tướng lĩnh là đến đội binh sĩ, ai nấy mặt mày lem luốc, mỏi mệt rã rời, áoquần rách nát, để lộ những sợi bông két bẩn, trên người họ, chỉ có chữ “lính”in sau lưng áo là vẫn nhìn thấy rõ dù đứng từ rất xa. Lữ Quang xuất chinh dẫntheo năm vạn quân, viện binh của Lữ Hoằng khoảng hơn ba vạn. Nhưng giờ đây,theo tính toán sơ bộ của tôi, chỉ còn khỏang hơn ba vạn người. Timtôi đập mạnh, vậy là chỉ còn hơn một nửa số người sống sót trở về.
Sauđội binh lính là đội xe bò chở hàng, trên những cỗ xe cỡ lớn chất ngất thứ gìđó rất giống lương thực. Đám cư dân Guzang, sau nhiều ngày đói khát, khi nhìnthấy hàng dài xe chở lương thực như vậy, bỗng nhiên náo động, ầm ĩ. Dân chúngvỗ tay rầm trời, ùn ùn kéo về giữa phố, nhưng đã bị đám lính dẹp đường cản lại.Từng cánh tay gầy guộc giơ ra, chới với trong không trung, kiếm tìm trong vôvọng.
Sốlương thực lớn như vậy, chắc chắn không thể là lương thực còn dư sau trận đánh.Trong cảnh đói kém này, đào đâu ra ngần ấy lương thực? Tôi đứng ở đầu phố, nhìnđám người nhà họ Lữ đầy ngạo mạn mà cười buồn.
Thờikỳ Thập lục quốc kéo dài hơn một trăm ba mươi năm, lật mở sách sử, sẽ thấy sựxuất hiện thường xuyên của những dòng chữ ngắn ngủi thế này: “Mất mùa lớn, nạnđói nghiêm trọng”. “Quan Trung xảy ra nạn đói, dịch bệnh hoành hành”. “Hạn hán,bệnh dịch, giá lương thực tăng đột ngột”.
“Nướclũ ngập năm châu: Kinh Châu, Dự Châu, Từ Châu, Dương Châu, Ký Châu”.
Chúngta vẫn thường tự mãn rằng: Trung Quốc đất đai rộng lớn, sản vật phong phú,nhưng thực tế là đất tuy rộng mà sản vật không lấy gì làm phong phú. Do sự khácbiệt sâu sắc về địa lý giữa các vùng Đông – Tây – Nam – Bắc, nên hàng năm thiêntai đều xảy ra cục bộ tại nhiều khu vực. Khi đất nước thống nhất, chúng ta cóthể thực hiện chính sách phân phối nguồn tài nguyên. Nhưng trong giai đoạn cátcứ phân tranh, hoặc dưới sự thống trị của nhà cầm quyền quan liêu, hủ bại,người dân tại những khu vực xảy ra thiên tai mà không được cứu trợ sẽ ra sao?Họ chỉ có thể đi cướp bóc. Bởi vậy, “thiên tai” thường đi liền với “nhân họa”.Trong giai đoạn chiến tranh xảy ra liên miên, hoặc khi một nhà nước đang đứngbên bờ vực diệt vong, thì trong sách sử thường xuất hiện rất nhiều những ghichép về thiên tai. Những người mê tín cho rằng đó là do ý trời. Nhưng nguyên nhân chính là do nhà nước đã không biết cách phân phối nguồn tàinguyên, thế nên, nạn đói và chiến tranh thường không bao giờ tách rờinhau.
Nhưvậy có thể thấy, Lữ Quang xuất chinh nhằm hai mục đích, chống phản loạnvà cướp lương thực. Hãy nhìn lại một cách tổng quát lịch sử của Dương Châutrong giai đoạn này. Nhà Tiền Lương của họ Trương bị diệt vong từ lâu nêntạm thời không xét đến, còn lại bốn nhà Lương cát cứ bốn vùng, cộng thêm nướcTây Tần chiếm vùng Thanh Hải và Cam Nam, năm tiểu quốc này tuy thế nước yếu ớtnhưng thường xuyên xảy ra xung đột. Từ góc độ kinh tế có thể thấy, diện tích lãnhthổ nhỏ bé như vậy, lại không thể khôi phục sản xuất, người dân không sống nổi,họ sẽ phải làm sao? Họ sẽ dựng cờ khởi nghĩa, vậy cách khôn ngoan nhất của nhàcầm quyền trong bối cảnh này là chuyển dịch mâu thuẫn nội tại ra bênngoài. Tiến hành chiến tranh với ngoại bang, nếu thắng lợi, có thể tha hồ cướpbóc. Nhưng những nước lớn như nhà Hậu Tần của họ Diêu thì không thể đánh bạiđược. Bởi vậy, phải chọn đánh các nước nhỏ vừa tầm. Chiến tranh xung đột, kéodài suốt mấy mươi năm, chờ đến khi người anh hùng có khả năng thống nhất lãnhthổ xuất hiện, thì những tiểu quốc này cũng từng bước tan rã.
Vàtrong số những vị quân chủ này, có mấy người biết chăm lo cho dân chúng khi nạnđói ập tới. Vị anh hùng tài ba Thốc Phát Khuê, người lập nên vương triều Bắc Ngụy,trong thời gian chiến tranh với nhà Hậu Yên, khi ông đích thân đi kiểm tra tìnhhình ôn dịch đang hoành hành và nghe tướng lĩnh báo cáo rằng cứ mười người thìcó bốn đến năm người chết vì bệnh dịch, ông đã thản nhiên đáp: “Đó là ý trời,chẳng thể cứu vãn. Cũng may vẫn còn rất nhiều người sống sót để xung quân”. Khibinh lính thiệt mạng quá nửa, thì dân thường sẽ thế nào? Sử sách không ghichép, nhưng chắc chắn nhiều hơn rất nhiều.
Bàithơ “Bảy nỗi buồn đau” của Vương Xán có đoạn: “Ra cửa nào trông thấy? Xươngtrắng ngập đồng sâu. Bên đường có một chị Đói, quẳng con đống lau Đi xa còntiếng khóc Gạt lệ không ngoái đầu. Một thân còn chưa chắc Cả hai sống đượcsao?[1]” [1] Bài thơ “Bảy nỗi buồn đau” của Vương Xán, Nhượng Tống dịch.
Tấnbi kịch thảm khốc ấy đang diễn ra ở khắp mọi nơi trên mảnh đất Trung Nguyênrộng lớn này. Nhìn vẻ dương dương tự đắc của bọn người nhà họ Lữ, nỗi căm phẫntrào dâng trong tôi. Vì sao chính quyền lại rơi vào tay những kẻ ác bá này? Vìsao thứ rẻ rúng nhất trong thời đại này lại là mạng sống của con người?
LữQuang lớn tiếng tuyên bố trước đám đông đang tập trung phía trước lầu trống,rằng: Cuộc chiến chống quân phản loạn đã giành thắng lợi, tạ ơn ông trời phù hộLương Châu. Cư dân thành Guzang được phép mang theo hộ tịch đến nhận lươngthực. Dân tị nạn chỉ được phát hạt giống phải lập tức trở về quê hương, tiếp tục trồng cấy. Mọi người sẽ được chia lại ruộng đất bị bỏ hoang vìthiên tai. Dĩ nhiên rồi, Lữ Quang không thể chấp nhận tình trạng thiếu lươngthực cho quân đội vào mùa thu tới.
Đâyvốn là một tin tốt lành, nhưng Lữ Quang có vẻ rất thất vọng, vì sau tuyên bốấy, ông ta không hề nhận được những tiếng hoan hô vạn tuế dậy sóng mà ông tahằng trông đợi. Lữ Thiệu vội giải thích rằng, nạn dân đều tập trung bên ngoàithành, hắn sẽ đến đó thông báo tin tốt lành của vua Lương.
Cổngthành cuối cùng cũng được mở rộng cho thường dân. Hơn hai trăm người trong nhàchúng tôi, cùng cư dân Guzang ùn ùn kéo nhau qua cầu treo, tiến về phía ngọnnúi bên ngoài thành, nơi tập trung đông dân vùng thiên tai nhất.
Ngọnnúi ở phía Nam thành Guzang ấy không cao, nhưng diện tích đất rất rộng. Mặt núihướng về cổng thành, phía Nam có rất nhiều hang động, những người nghèo, khôngnơi nương tựa thường trú ngụ ở đó. Đây là nơi mà cư dân Guzang thường xuyênđến kiếm củi, cũng là nơi tập trung nhiều mộ địa nhất. Thời kì đầu xảy ra nạnđói, ngày nào chúng tôi cũng có mặt ở đây, nên rất rành rẽ địa hình địa thế.Nhưng lần này, vừa đặt chân tới nơi, chúng tôi đã vô cùng kinh ngạc: ngọn núilúc trước cây cối um tùm tươi tốt là thế, giờ đây không còn sót một gốc câyngọn cỏ nào, chỉ còn là một ngọn núi trọc.
Bướclên mấy bậc đá để vào khu vực hang động đầu tiên. Dọc lối đi là những đống đấtnhỏ, những đống đất ấy thấp có cao có, trồi lên la liệt khắp ngọn núi.
Mấychục hang động như đang há những cái miệng rộng đen sì, lạnh lẽo, thâm u, chợtnhớ tới những ghi chép trong sách “Tấn thư” mà vừa lại gần tôi vừa run sợ. Tôidừng lại phía sau Rajiva, túm lấy tay áo chàng, khổ sở van nài: - Rajiva, đừngđến gần nữa.
-Sao vậy? Nàng không khỏe ư?
Chàngdìu tôi, gọi Đoàn Sính Đình đến và giao tôi cho cô ấy chăm sóc.
-Nàng ở đây nghỉ ngơi, lát nữa ta quay lại.
SínhĐình đỡ tôi ngồi xuống tảng đá bên lối đi, Rajiva tiếp tục lên cao, hơn haitrăm nạn dân mà chúng tôi cưu mang cũng vội vã lên theo. Trong số họ, có rấtnhiều người bị lạc mất người thân từ khi có lệnh cấm và đến nay đã hơn mộttháng không được gặp mặt. Tôi dõi theo bóng đám người già trẻ lớn bé ấy, độtnhiên cảm thấy vô cùng sợ hãi, ngậm ngùi quay mặt đi.
-Chị Ngải Tình làm sao vậy?
SínhĐình hốt hoảng kêu lên, rút khăn tay, đặt lên môi tôi.
-Sao chị lại chảy máu cam?
Tôigiật mình, kéo chiếc khăn tay xuống nhìn, rặt một màu sẫm đỏ, tay chân tôi bỗngdưng lạnh toát. Điều tôi lo sợ nhất, đã xảy ra rồi ư?
-Chị Ngải Tình…
Toànthân run rẩy, tôi lấy tay bịt chặt mũi lại, ngẩng lên nhìn Sính Đình:
-Tôi không sao, đừng nói với ai cả, nhất là pháp sư… Nhác thấy Mộ Dung Siêu vàHô Diên Tĩnh đang đứng bên cạnh, tôi vội vàng lấy lại vẻ an nhiên, giữ giọngthật bình tĩnh:
-Sính Đình, hãy đưa mấy đứa trẻ về nhà, đừng để chúng nhìn thấy…
-Nhìn thấy gì?
Tôitrừng mắt nhìn cô ấy, nắm chặt tay, lồng ngực nôn nao cuộn trào, hít một hơithật sâu, cố nén cơn buồn nôn dâng lên đến cổ họng, ngước nhìn đôi mắt thanh túcủa cô ấy, thốt ra từng chữ một đầy khó khăn:
-Người…ăn… thịt… người…
Côấy suýt hét lên, nhưng đã kịp đưa khăn tay lên bịt miệng, rồi trông ra bốnphía, bỗng cô ấy gào lên kinh hãi. Theo hướng ánh mắt của cô ấy, tôi thấy SínhĐình đang giẫm lên một mô đất nhỏ, lớp đất phủ tạm bợ đã bị mũi chân cô ấy vôtình hất tung ra, để lộ một đoạn xương người, hình như là một đoạn chân người.
Mặtmũi trắng bệch, cô ấy kéo mạnh tay tôi:
-Chị Ngải Tình, chúng… chúng ta cùng về thôi.
Tôilắc đầu:
-Pháp sư vẫn còn ở đây, tôi phải chờ chàng.
Tôigắng nở một nụ cười an ủi:
-Cô đưa bọn trẻ về đi, chúng tôi sẽ về ngay thôi.
Côấy nhìn tôi lưỡng lự, rồi gật đầu, gọi hai đứa trẻ, căn dặn tôi đôi câu và ravề. Tôi hít một hơi thật sâu, dặn lòng không được sợ hãi, đứng lên, đi tìmRajiva.
Chưađến hang động đầu tiên, đã nghe thấy tiếng kêu thất thanh, sau đó, có người laora khỏi động đá. Quan sát kỹ, tôi nhận ra người phụ nữ đó chính là chị Lưu,từng trú ngụ tại nhà tôi. Theo sau chị là một người đàn ông mà khắp người chỉcòn da bọc xương, đang chìa tay, chới với kéo chị lại.
-Sao anh có thể đối xử với Tiểu Tam như vậy…
Mộttay chị túm áo người đàn ông, tay kia ra sức đập lên thân thể người đàn ông ấy,miệng không thôi gào thét thảm thương:
-Anh là đồ súc vật, anh đem con mình… anh đổi con mình…
-Vì tôi không còn cách nào khác!
Ngườiđàn ông để mặc chị Lưu trút giận dữ lên thân thể mình, tấm thân gầy gò, ốm o ấydường như không đủ sức để đứng vững nữa.
Anhta ngẩn ngơ nhìn miếng thịt sống trên tay, môi hé mở, răng cửa rụng sạch, để lộphần lợi đen sì.
-Nếu không vì đói đến phát điên, ai nỡ, ai có thể ăn thứ này… Cơn buồn nôn xônglên mũi, lên cổ, tôi ra sức kìm nén, không dám nhìn thứ trên tay anh ta thêmphút giây nào nữa, tôi vội vàng bước tiếp. Tôi ngó vào một cửa động khác trênđường đi để tìm Rajiva, chỉ có vài bóng người đang ngồi vật vờngoài cửa động sưởi nắng. Vào khoảng thời gian chúng tôi tiến hành việc cứutrợ, mỗi động đá như thế này phải có đến hàng hai, ba chục người chen chúc nhaunáu thân. Giờ đây, trừ những người đã xung quân, ra trận, những người đã chếtđói, mỗi động đá chỉ còn lại chừng bốn, năm mạng người.
Thấytôi, mấy người đó đồng loạt ngẩng đầu nhìn, khóe môi họ vẫn còn vệt máu đỏtươi. Ông lão ở cách tôi gần nhất, mắt đờ đẫn, chỉ ngước nhìn tôi một cái rồilại tiếp tục cúi đầu gặm thứ gì đó cầm trong tay. Khi tôi nhìn rõ ông ấy đanggặm thứ gì, không chịu nổi nữa, tôi nôn ra cả mật xanh mật vàng. Đó là một cánhtay, ông ấy đang gặm một cánh tay.
-Cháu gái, đói không?
Ônglão vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, chìa cánh tay về phía tôi, lúc lắc bàn tay xámngoét của người chết trước mắt tôi.
-Quanh đây không còn gì để đốt cả, đừng sợ bẩn, ăn thịt sống cũng có thể giữmạng…
Tôiquay đầu, chạy thục mạng, thoát khỏi động đá ấy, ngửa mặt nhìn vầng dương đangthờ ơ chiếu rọi. Vì sao trời nắng mà tôi không hề cảm thấy ấm áp. Tôi nhắm mắtlại, nắm chặt tay, hét lên với vầng dương vô cảm ấy. Vì sao tôi phải chứng kiếnthảm cảnh này? Nước mắt xóa nhòa khung cảnh trước mắt, tôi chao đảo, bỗng cánhtay ai đó đỡ lấy vai tôi. Tôi mệt mỏi quay đầu lại, bắt gặp gương mặt đầm đìanước mắt của Rajiva.
-Ngải Tình, nàng về trước đi.
Chàngnức nở, toàn thân run rẩy, giọng nói nghẹn ngào:
-Đừng nhìn nữa…
Tôinhìn thấy trên gương mặt từ tâm của chàng chút hơi ấm. Rốt cuộc đã lấylại được bình tĩnh, tôi nắm chặt cánh tay chàng, khóc lóc van nài:
-Em thật đáng trách, em phải biết sự thể sẽ diễn ra như thế này từ lâu rồi mớiphải! Chàng hãy theo em đi về, đừng ở đây thêm nữa…
-Ngải Tình, nàng đã sớm biết kết cục này, phải không?
Tôikhóc nấc lên, lẩm nhẩm đọc cho chàng nghe những ghi chép đã giày vò tôi suốthơn ba tháng qua:
-“Khi ấy, giá lương thực tăng cao, năm trăm quan tiền một đấu gạo, người ăn thịtngười, quá nửa số dân đã chết sau nạn đói”.
Tôigắng gượng lấy hơi, tay nắm chặt, móng tay cắm thẳng vào da thịt, cơn đau thểxác ấy sẽ giúp tôi tỉnh táo hơn và có đủ dũng khí để tiếp tục:
-Rajiva, đối với chúng ta nạn đói này tựa như một cơn ác mộng khủng khiếp vàphải trải qua bao cực nhọc, khổ ải chúng ta mới có thể tồn tại, nhưng nó chỉ đượcghi lại bằng vài con chữ ít ỏi trong sử sách. Nguyên nhân của nạn đói là gì, nóbắt đầu và kết thúc khi nào, nơi nào hứng chịu hậu quả nặng nề nhất, tình hìnhthiên tai ra sao, bao nhiêu người thiệt mạng, tất cả những thông tin này đềukhông được nhắc đến. Bởi vì sao chàng biết không? Bởi vì những trận thiên tainhư thế này diễn ra ở khắp mọi nơi trên mảnh đất Trung Nguyên rộng lớn.
Tôira sức hít một hơi thật sâu, toàn thân như lên cơn sốt rét, khí lạnh lan khắpcơ thể, giọng tôi run rẩy:
-Nhưng em không dám nói với chàng vì em không muốn chàng phải chịu đựng kết cụctàn nhẫn này. “Người ăn thịt người, quá nửa số dân thiệt mạng”, đây không phảilà nạn đói duy nhất. Thảm kịch tương tự sẽ còn tiếp diễn trên đất Lương Châunày và thậm chí nó còn bi thương hơn thế. Dù là con người của tương lai, nhưngngoài việc biết trước những kết cục này ra, em chẳng thể làm gì để thay đổilịch sử. Em đã gắng hết sức, thực sự đã gắng hết sức rồi…
-Ngải Tình…
Chàngxiết chặt tôi trong lòng, vùi đầu vào gáy tôi, nước mắt chàng chảy xuôixuống cổ tôi.
-Nàng đã khổ tâm biết chừng nào… Từ nay đừng giữ trong lòng, đừng ép mình chịuđựng tất cả. Chúng ta là vợ chồng, nàng nên chia sẻ cùng ta, bất luận khó khăn,gian khổ lớn đến đâu, hai ta sẽ cùng gánh đỡ. Nước mắt tôi lã chã rơi trên vaichàng, thấm đẫm lớp áo nâu sòng đã bạc màu của chàng. Chưa kịp nói gì, bỗng tôitrông thấy một cánh tay gầy rộc như cành cây khô với lên, nắm chặt lấy vạt áoRajiva. Rajiva thất kinh, vội kéo tôi ra phía sau. Đó là một người đàn ông toànthân chỉ còn da bọc xương, không sao đoán biết được tuổi tác, đang trong cơnhấp hối, từng bước lê lết đến chân chúng tôi, gắng gượng ngẩng đầu, giọng nóiyếu ớt:
-Pháp sư, con sắp chết rồi… ngài có thể tụng kinh siêu độ cho con được không?Ngài tụng kinh cho con, tích đức giúp con, để kiếp sau con được đầu thai đếnnơi có thể ăn no mặc ấm, ngày nào cũng có màn thầu để ăn, cầu xin ngài…
Cánhtay túm chặt vạt áo Rajiva từ từ buông xuống, Rajiva vội vàng lật người đó lại,đưa ngón tay vào sát mũi, nhưng người đó đã tắt thở. Rajiva quay mặt đi, haihàng lông mày chau lại, đầy thương tâm. Chàng nhắm mắt lại, hít một hơi thậtsâu, ngồi xuống xếp bằng trông tư thế thiền, lầm rầm tụng niệm, thành tâm cầuphúc cho con người vô danh ấy. Âm thanh tụng niệm vang trong gió xuân lànhlạnh, trong nắng xuân bàng bạc, trôi đến từng hang đá trên khắp ngọn núi này.
Từhang đá sâu nhất đã có người bước ra, họ dìu nhau lại gần Rajiva. Nạn dântrong các động đá trên cao cũng ùn ùn kéo xuống. Dưới ánh nắng mùa xuân chiếurọi, thân thể gầy guộc, thanh thoát của Rajiva tựa như hình hài của một vị BồTát. Chàng như một vị thánh đang chuyên tâm tụng kinh, từ con ngườichàng, toát ra vầng hào quang thánh khiết, và như có sức mạnh của lực hướngtâm, thu hút những con người vừa thoát khỏi kiếp nạn, lay động tâm can họ,khiến họ thành tâm quy y.
-Pháp sư! Xin hãy tụng kinh rửa tội cho con.
Mộtngười trong số họ bỗng gào lên thảm thiết, quỳ rạp xuống, vừa khấu đầu vừa lêthân về phía Rajiva, đến trước mặt chúng tôi, người đó cứ dập đầu mãi khôngthôi.
-Con đã ăn thịt ba người, con đã đem con trai con, vợ con và mẹ con để trao đổi.Phật tổ có thể xá tội cho con không? Con sẽ phải xuống địa ngục, đúng không?
Ngườiđó vừa dứt lời, những người khác đồng loạt quỳ xuống, tiếng khóc dậy trời, hếtlớp này đến lớp khác, như sóng dội cuộn trào.
-Pháp sư con cũng đem con trai đi đổi. Con đáng tội chết, con sẽ xuống địa ngục.Chỉ cầu xin ngài tụng kinh siêu độ cho đứa con tội nghiệp của con…
-Pháp sư, cả con nữa! Xin hãy tụng kinh cho mẹ con. Lúc sống bà đã phải chịu baonhọc nhằn, đến lúc chết còn bị ăn thịt. Cầu mong kiếp sau bà sẽ không gặp phảiđứa con bất hiếu, bất nhân như con nữa…
-Pháp sư, những người sống sót ở đây, ai mà không từng ăn thịt người, ai màkhông từng mặc quần áo của người chết, ai mà không mất cả gia đình người thân,chỉ còn lại một mình trên cõi đời này. Những người bỏ mạng trên ngọn núi nàynhiều hơn rất nhiều so với những người còn sống sót… Rajiva lảo đảo đứng lên,bước đến bên cạnh những người đang quỳ trước chàng, muốn đỡ họ dậy, nhưng khôngai chịu.
-Xin lỗi, xin lỗi! Ta đã hứa sẽ không để ai chết đói, nhưng đã không thể bảo vệchúng sinh, đó là bởi vì ta bất tài vô dụng!
Nướcmắt chàng tuôn trào, chàng cúi gập người xuống, tự đấm vào ngựcmình. Tôi gạt lệ, vội chạy đến kéo chàng lại.
-Pháp sư, xin ngài đừng tự trách mình, ngài đã gắng hết sức rồi!
HôDiên Bình cũng đến đây, anh ta kêu lớn, nước mắt lưng tròng. Theo sau anh ta làhai trăm con người được chúng tôi cứu giúp. Hô Diên Bình quỳ xuống, những ngườiphía sau nhất loạt đổ rạp người xuống theo, họ trịnh trọng vái lạy chúng tôi.
Nướcmắt chảy tràn trên mặt, Hô Diên Bình chống hai tay, ngẩng lên nhìn Rajiva:
-Nếu không có ngài, hơn hai trăm con người sẽ không thoát khỏi số kiếp ăn thịtngười hoặc bị người khác ăn thịt. Chính ngài đã cứu sống chúng tôi, pháp sư,ngài là cha mẹ đã tái sinh ra chúng tôi. Ân đức này, chúng tôi không bao giờquên.
Rajivakéo Hô Diên Bình đứng lên, nhưng không ăn thua, chàng tiếp tục kéo những ngườiphía sau, nhưng không ai chịu nhúc nhích. Chúng tôi đã khóc thương đến tan nátcả cõi lòng, đứt từng khúc ruột. Ngọn núi trơ trụi không một bóng cây ngọn cỏấy, bỗng chốc như bị rung chuyển bởi những tiếng ai oán dữ dội ấy. Một nhómngười đi lên từ phía lối mòn. Dẫn đầu là Lữ Thiệu và Lữ Hoằng. Phía sau bọn họlà Mông Tốn, Đỗ Tấn và Đoàn Nghiệp. Họ đứng đó giữa những thanh âm vang độngnúi đồi của tiếng kêu thương chất ngất, ai nấy đều kinh khiếp khi đưa mắt quansát số nạn dân còn sống sót và cả người đứng giữa đám đông nạn dân ấy: Rajiva.