Đức Phật Và Nàng

Chương 75: Chờ đợi trước bình minh



LữThiệu cho người khiêng tới mấy chục sọt bánh màn thầu, đám đông nạn dân lao tớinhư hổ đói. Không đủ sức để chạy nữa, họ bò lê dưới đất nhận đồ ăn. Những tiếngnhai nuốt nhồm nhoàm, rào rào vang khắp không gian, như ngấu nghiến vào thầnkinh của mỗi người đang có mặt ở đó. Có người ăn nhanh quá, màn thầu tắc nghẹntrong cổ họng, không thở được, không ai giúp. Khi chúng tôi phát hiện ra thì đãtắt thở. Lữ Thiệu lạnh lùng thông báo lệnh chia ruộng phát hạt giống, yêu cầudân vùng thiên tai nhanh chóng đăng ký và lập tức trở về quê hương tiếp tụctrồng cấy.

Khôngcó lời cảm ơn, không mảy may xúc động, tất cả các nạn dân đều khóc khi nhận hạtgiống. Tôi bế Cẩu Nhi đứng ở điểm đăng ký, chờ đợi cả ngày vẫn không thấy bóngdáng người phụ nữ có tên Tần Tố Nga đâu. Tôi đã dò hỏi nhưng không ai hay biết.Tôi liền đến tìm Đoàn Nghiệp, vì ông ấy có danh sách các binh sĩ. Tìm mãi mớithấy một dòng tên bị gạch ngang đỏ chói: Ngụy Trường Hỷ, người Liễu Viên,Đôn Hoàng.

Tôiôm bé Cẩu Nhi về nhà, trên đường đi gặp toàn những người dân vùng thiên tai đãnhận được hạt giống, đang chuẩn bị trở về quê cũ. Tôi đứng bên lề đường, chămchú quan sát từng người phụ nữ qua lại, mong gặp được mẹ của Cẩu Nhi. Em đã mấtđi người cha, tôi cầu mong em không phải trở thành trẻ mồ côi. Trời bắt đầu tốidần, gió lớn cuốn tung những đám bụi, quất vào tấm thân còm cõi của những conngười may mắn sống sót. Họ là những bóng hình lẻ loi, cô độc, đang lê đi trongvô định với nỗi hoang mang, buồn thảm. Tôi chợt nhớ đến bài dân ca Bắc Triều“Bài ca Lũng Sơn” mà lòng nhói đau:

“Nướcnguồn Lũng Sơn chia về muôn ngả

Nàokhác phận mình, biền biệt quê xa Sáng rời Hân Thành, tối ngủ Lũng Sơn Rét runcầm cập, lầm lũi, tủi hờn. Dưới băng nước chảy, rặt tiếng kêu thương

Trôngvề quê cũ, lòng đau dạ sờn”.

Nhẩmđọc bài thơ não nùng kia, tôi lại hình dung ra hình ảnh những con người hồihương này cô độc lê đi trên những chặng đường núi non cheo leo, hiểm trở, tiếtxuân se lạnh không làm dịu đi nỗi ám ảnh kinh hoàng, không làm vơi đi nỗi đớnđau và hoang mang tột cùng trong lòng họ. Có lẽ họ sẽ chẳng thể ngon giấc trongsuốt phần đời còn lại. Về đến nhà thì thấy hơn một nửa số nạn dân được chúngtôi cưu mang đã ra đi, vì dường như ai nấy đều muốn nhanh chóng rời khỏi vùngđất ác mộng này. Thời gian còn lại trong ngày, tôi dành để nựng Cẩu Nhi thôikhóc và cùng Rajiva tiếp nhận những lời từ biệt. Đến tối, tôi thấy cănphòng của mình đã hoàn toàn trống trải. Đây là đêm đầu tiên sau nhiều tháng,chỉ có hai chúng tôi trong không gian của riêng mình.

Tôibưng nước ấm vào cho Rajiva rửa ráy. Chậu nước ấm này là công sức suốt một buổichiều kiếm củi ở ngoại thành của Hô Diên Bình. Rajiva đang trầm ngâm bên cửasổ, tôi gọi mãi mới quay lại, lẳng lặng rửa ráy. Xong xuôi, chàng lại trở về vịtrí cũ.

-Đang nghĩ gì vậy?

Tôiđịnh quét dọn phòng ngủ, nhưng không yên lòng khi thấy chàng cứ mãi im lặng.

Chàngkhông quay lại nhìn tôi mà chăm chú ngắm nhìn vầng trăng lạnh lẽo chênh chếchngoài cửa sổ, giọng chàng rì rầm như tiếng suối ngày đông giá buốt:

-Ngải Tình, nàng còn nhớ, vào cái ngày bắt đầu xảy ra nạn đói, ta đã hứa khôngđể ai phải chết đói không?

Tôithở dài, vậy là chàng vẫn còn canh cánh trong lòng chuyện đó.

-Rajiva, đừng tự trách nữa… - Không phải ta tự trách.

Chàngnhẹ nhàng cắt lời tôi, ánh mắt như muốn trải bày:

-Chúng ta đã dốc toàn bộ sức lực để cứu người. Ta cứ nghĩ làm vậy sẽ không để aiphải chết đói, nhưng kết quả, chúng ta chỉ giúp được hai trăm người. Ta đem bántoàn bộ tài sản của mình cũng chỉ cứu được hai trăm mạng người trong sốhơn mười vạn nạn dân. Tháng cuối cùng của trận đói, phải nhờ vào cuộc trao đổicủa nàng với Mông Tốn, cả nhà ta mới có thể tiếp tục sinh tồn.

Chàngchìa hai bàn tay với những đốt dài, gầy guộc ra trước mặt, lật qua lật lại quansát thật kỹ, rồi bật cười chua chát:

-Thì ra khả năng của ta lại nhỏ bé nhường vậy!

Chàngbuông thõng tay xuống, tiếp tục nhìn ra ngoài cửa sổ:

-Nếu lúc xưa ta thuận theo ý Lữ Quang, bày ra vài quẻ bói để gạt ông ta, nếu tachịu đặt sang bên lòng tự tôn cá nhân để cầu xin ông ta ban chỗ ở và lương thựccho những nạn dân đó, thì có thể cứu sống thêm bao nhiêu người nữa?

Tôingẩng lên nhìn chàng. Dưới ánh trăng bàng bạc, con người ấy tựa như một thâncây cô lẻ, ánh sáng chiếu nghiêng, hắt lên những đường nét sáng rõ của gương mặtchàng. Chàng cười buồn, vẻ bất lực thấm trong âm hưởng thê thiết của giọng nói:

-Ít nhất không chỉ hai trăm con người đó. Đầu óc tôi rối bời, không sao chắt rađược một câu chữ hoàn chỉnh, lời chàng chua chát vang bên tai:

-Và nếu như, ta có thể thuyết phục Lữ Thiệu hủy lệnh đóng cửa thành, thì còn cóthể cứu sống thêm bao nhiêu người nữa?

Chàngquay lại nhìn tôi, nụ cười khổ sở đè nặng trên khóe môi:

-Ngải Tình, xưa nay ta luôn tin tưởng và ra sức bảo vệ những giá trị mà ta cholà cao quý, tránh xa những xô bồ trần tục, cứ ngỡ làm vậy là đúng. Nhưng sauthảm kịch này, ta nhận thấy mình là kẻ không biết cân nhắc thiệt hơn.

Chàngngửa đầu lên, để vầng trăng chiếu rọi vào đôi đồng tử màu xám nhạt, tỏa ra thứánh sáng lung linh, giọng chàng đượm buồn:

-Thuật trị dân mà nàng truyền dạy cho Mông Tốn nhấn mạnh: để đạt được mục đíchcó thể bất chấp thủ đoạn. Phật pháp Đại Thừa cũng có thuyết: tùy cơ hành sự,miễn sao đạt được sự thuận tiện. Nhưng ta đã quá ư kiêu ngạo, không chịu kếtgiao với họ Lữ kia. Ta đã quên rằng, dù bọn họ có hung ác, tàn bạo đến đâu, họvẫn là vua một nước, số phận của muôn dân nằm trong tay họ. Lẽ ra ta đã có thểcứu giúp nhiều người hơn nữa, nhưng lại bảo thủ, sức mình hèn mọn mà đòi mộttay chống đỡ cả bầu trời, thật đáng chê cười!

-Rajiva…

Nhưkhông nghe thấy tiếng gọi khe khẽ của tôi, chàng vẫn lặng lẽ đắm chìm trong thếgiới của riêng mình.:

-Hồi nhỏ đến Kabul học đạo, ta được kể cho nghe câu chuyện này. Ngày đó VuaKabul bắt được một chú chim nhỏ, Vua muốn nghe chim hót, nhưng suốt ba năm,chim không hề cất lên tiếng nào. Hoàng hậu gợi ý rằng: nghe đồn, loài chim sẽcất tiếng hót khi trông thấy đồng loại, hãy đặt vào lồng một tấm gương, để chú chim tưởng rằng được gặp đồng loại. Vua làm theo cách đó, quảnhiên chú chim nhỏ đã cất tiếng khi nhìn thấy bóng mình trong gương, nhưng đólà tiếng kêu ai oán thấu tận trời xanh, chú chim đã hót vang cho đến khi đứthơi mà chết.

Chàng ngước lên vầng trăng lạnh lẽo ngoài kia, vẻ cô quạnh, lẻ loi như một thứđịnh mệnh dai dẳng, vây khốn lấy chàng. Trầm tư giây lát, giọng nói phiêu linhlại vang lên trong đêm tịch mịch:

-Ngải Tình, kể từ khi đến Guzang, ta không cứu được người cũng không thểthuyết pháp, nhìn ra xung quanh, thấy mình như một vật thể cô đơn, lẻ loi vàrất đỗi hoang mang. Ta giống như chú chim nhỏ trong câu chuyện kia, cấttiếng kêu đơn độc, vô vọng trên cành cây khô héo. Lẽ nào, ta phải dựa dẫm vàokẻ là vua một nước nhưng giết người không nương tay, coi mạng người như cỏ rácấy, mới có thể cứu nhân độ thế, mới có thể truyền bá Phật pháp ư?

Nướcmắt chứa chan, sống mũi tôi cay xè. Một con người phẩm cách cao thượng, khôngmảy may vương chút bụi trần như chàng, nếu không tận mắt chứng kiến và tự thântrải nghiệm những khổ nạn vừa qua, sao có thể gạt sang bên lòng tự tôn để suysét những vấn đề vô cùng khó khăn đối với tư tưởng truyền thống và khí khái caongạo của chàng kia chứ!

Tựavào bờ vai luôn khiến tôi được vững dạ của chàng, tôi thở dài, nói:

-Danh sư Thích Đạo An, người từng cầu đến sự giúp đỡ của Phù Kiên nói rằng: “Khôngdựa vào nhà cầm quyền, khó lòng phát triển Phật pháp”. Ngày trước ở Tâyvực chàng được mọi người tôn vinh, chủ yếu là bởi xuất thân của chàng, hoàngthất Khâu Từ đã hậu thuẫn cho chàng, là chỗ dựa vững chắc của chàng. Phậtgiáo là quốc giáo ở Tây vực, chàng xuất thân từ gia đình quý tộc, nên dĩ nhiênkhông cần suy nghĩ đến vấn đề phải dựa vào quyền lực của Vua chúa để truyền báđạo Phật. Nhưng Trung Nguyên thì khác. Những ưu thế chàng có được ở Tây vực đãtrở nên vô nghĩa khi đến Trung Nguyên. Nơi đây, Phật pháp không mấy phát triển,không ai quan tâm đến xuất thân của chàng, không quý tộc vương tôn nào ủng hộtư tưởng của chàng.

Chànghướng sang tôi, nỗi buồn trong đáy mắt đậm sâu. Tôi đưa tay vuốt ve hàng lôngmày đang nhíu lại của chàng xót xa khi thấy những nếp nhăn cứ ngày một sâu hơntrên khóe mắt chàng:

-Rajiva, chàng nên học theo Phật tổ. Ngài có xuất thân tương tự chàng,cũng là một thành viên trong hoàng thất của một tiểu quốc. Ngài đã ra sứctruyền bá đạo Phật ở Thiên Trúc, nơi mà toàn dân đều đã tin theo đạo Bà La Môn.So với nhiệm vụ truyền bá đạo Phật ở vùng đất Trung Nguyên này của chàng,công việc của Phật tổ gian nan hơn rất nhiều. Dù sao chàng cũng có hai mươi tưđệ tử trợ giúp chàng truyền đạo, Phật tổ khi ấy mới chỉ có năm đệ tử. Để hoànthành sứ mệnh, Ngài đã phải khổ công nhường nào!

Tôingừng lại một lát, xâu chuỗi những tư liệu đã đọc được:

-Đối với tầng lớp quý tộc, Ngài kết giao với Vua chúa. Con trai vua Bình Sa(Bimbisara) là thế tử A Xà Thế (Ajatasatru) giết hại vua cha để cướp ngôi, sauđó tìm đến Phật Thích Ca xưng tội, Đức Phật đã rộng lòng an ủi A Xà Thế. Đốivới tầng lớp trung lưu, ngài đã liên lạc với các nhà buôn, thuyết phục nhữngcười giàu có làm cư sĩ (đệ tử tu tại gia), tiếp nhận món quà là khu vườn tịnhxá của trưởng giả Cấp Cô Độc (Anathapindika). Đối với dân thường, Ngài kết giaovới cả kỹ nữ, ví như việc Ngài nhận lời mời dùng bữa với nàng kỹ nữ Ambapali vàcòn vui vẻ nhận vườn hoa mà cô kỹ nữ này có nhã ý tặng Phật. Em tin rằng chànglàu thuộc những điển tích này hơn em.

Tôilồng tay vào tay chàng, mỉm cười:

-Phật tổ đắc đạo năm ba mươi lăm tuổi, cuộc đời truyền pháp của Ngài kéo dàibốn, năm mươi năm, Ngài viên tịch năm tám mươi tuổi, tính đến khi ấy Ngài cũngmới chỉ có khoảng năm trăm đệ tử. Nhưng chàng xem, ngay tại thời điểm này, sốlượng nhà sư ở Trung Nguyên chắc chắn không chỉ năm trăm người. Mười sáu nămsau, tại Trường An, chàng đã thu nhận ba nghìn đệ tử. Năm mươi năm sau, BắcNgụy tiêu diệt nhà Bắc Lương của Mông Tốn, đã đưa hơn ba nghìn tăng sĩ đến kinhđô của Bắc Ngụy. Như vậy có thể thấy, chỉ trong vòng năm mươi năm, Phật giáo đãphát triển rộng rãi đến nhường nào trên mảnh đất Trung Nguyên này… Bởivậy, chàng không phải chú chim nhỏ cô độc, chàng còn có em, còn có các đệ tửmột lòng đi theo chàng, còn có cả một vùng đất khổ nạn đang thiếu thốntrầm trọng những nâng đỡ về tư tưởng và tinh thần. Không đến Trung Nguyên,chàng sẽ chỉ là một cao tăng được người ta kính trọng ở một tiểu quốc trên mộtốc đảo xa xôi, theo đà quay không ngừng nghỉ của bánh xe thời gian, chàng sẽchỉ là một hạt cát nhỏ bé vô danh lẫn giữa dòng sông lịch sử bao la. Mảnh đấtTrung Nguyên, nơi mà Phật pháp còn đang trong giai đoạn phát triển yếu ớt nàychính là miền đất hứa để chàng phát huy tài năng, trí tuệ và hoàn thành sứmệnh. Nơi này cần có chàng, chỉ cần chàng có đủ lòng kiên nhẫn để bắt đầu lạitừ đầu.

-Ngải Tình…

Chàngthở dài, nỗi cô đơn trong mắt trôi xa, ánh mắt chàng ấm lại, chàng kéo tôi vàolòng, giọng nói đã hết bi lụy:

-Nàng luôn biết cách kéo ta ra khỏi nỗi u mê. Bắt đầu lại từ đầu ư, ta đồng ý,ta sẽ gắng sức, ta sẽ không than thở, oán trách nữa, sẽ không tự cao tự đạinữa.

Nụcười tỏa rạng trên gương mặt xanh xao của chàng:

-Cưới được một người vợ như nàng, đó là ơn huệ mà Phật tổ ban tặng cho ta. Chàngghé sát vào tai tôi, thì thầm:

-Cảm ơn nàng, vợ yêu…

Hơinóng từ hơi thở của chàng phả vào tai tôi, khiến hai má tôi nóng bừng, tôi gắngtrấn tĩnh lại, suy nghĩ một lát, nhắc nhở chàng:

-Nhưng cha con họ Lữ đã nhiều lần xung đột với chàng, bọn họ cũng không phải làthế lực chàng có thể nhờ cậy. Những ghi chép về chàng trong suốt mười bảy năm ởLương Châu này rất ít ỏi, điều đó chứng tỏ chàng và họ Lữ kia không thể hòahợp.

Chàngngẩng đầu, vòng tay qua eo tôi, cánh tay truyền đến sức mạnh của sự kiên định:

-Vậy thì ta sẽ chờ, chờ cho đến khi một vị minh quân xuất hiện, sẵn lòng lắngnghe lời khuyên của ta, chăm lo cho muôn dân và có thể trợ giúp ta hoàn thànhsứ mệnh truyền bá Phật pháp.

-Nhưng phải mất mười sáu năm nữa Diêu Hưng mới phong chàng làm quốc sư.

Nụcười bi lụy ban nãy đã chuyển thành nụ cười tươi tắn của lòng tin và của sựkiên tâm bền bỉ thường thấy ở chàng. Chàng tựa cằm lên đỉnh đầu tôi, giọngchàng trầm ấm truyền đến tai tôi:

-Mười sáu năm có là bao. Chờ đợi không phải việc gì khó đối với ta. Ta sẽ gắngsống đời ẩn dật, chờ đến ngày ấy.

Cảmđộng không nói nên lời, tôi chỉ biết vòng tay ôm chặt lấy chàng và ước mong saohai chúng tôi sẽ có thể hợp nhất.

-Em sẽ ở bên chàng, chúng ta cùng đợi…

-Ừ…

Chàngdịu dàng vuốt tóc tôi, khẽ đặt một nụ hôn lên trán tôi:

- Ngải Tình, trong thành Guzang này không có ngôi chùa nào khangtrang cả, từ lâu ta đã có ý định kêu gọi quyên góp, cúng dường để xây chùa. Hômnay, khi đứng trên ngọn núi phía Nam, nơi tập trung dân chúng vùng thiên taiấy, ta chợt nảy ra ý tưởng này.

Chàngsuy nghĩ một lát, lại tiếp tục:

-Ta muốn xây chùa hang đá trên ngọn núi ấy, để siêu độ cho những chúng sinhthiếu may mắn thoát khỏi bể khổ, sớm được đầu thai ở kiếp khác.

-Vâng.

Tôingước nhìn chàng, vui mừng, phấn chấn. Vậy là chàng đã có một mục tiêu, chàngcó thể từng bước thực hiện mục tiêu này để vượt qua mười sáu năm trời đằngđẵng.

-Chi bằng, ngày mai chúng ta hãy đến gặp Lý Cảo. Nếu ông ta có thể học theotrưởng giả Cấp Cô Độc, quyên tặng vườn hoa, lại dùng vô số tiền vàng trải khắpvườn hoa ấy, thì còn gì bằng, ha ha. Buồn cười vì những suy nghĩ hài hước củamình, tôi bật cười ha hả.

Chàng cốc nhẹ vào đầu tôi, cũng bật cười theo:

-Không thể đâu! Ông ấy chịu quyên góp đã quý lắm rồi.

Tôihớn hở, lúc lắc tay chàng, hào hứng tưởng tượng:

-Chúngta còn có thể đến gặp Đỗ Tấn và Đoàn Nghiệp, thuyết phục họ quyên góp.

Tôivô cùng hoan hỉ khi thấy chàng đã lấy lại được sự tự tin. Hôm nay, lúc ở trênnúi, tôi tin rằng việc tôi chảy máu cam không phải là dấu hiệu hay nguy cơ gìcả, mà chỉ vì tôi quá ư mệt mỏi và sợ hãi mà thôi…

Chúngtôi được tiếp đón rất chu đáo ở dinh cơ của Lý Cảo. Ông ta tỏ ra cung kính vàtôi có thể nhận thấy trên gương mặt Lý Cảo sự áy náy về chuyện cứu trợlúc trước. Sau khi Rajiva trình bày lý do của cuộc gặp gỡ, ông ta đã lập tứctán đồng:

-Suy nghĩ của pháp sư là hoàn toàn đúng đắn, ngọn núi Bậc Thang ấy…

Tôi“A” lên một tiếng, ngắt lời Lý Cảo:

-Lý công tử vừa nói ngọn núi đó tên là gì?

LýCảo ngạc nhiên đáp:

-Núi Bậc Thang. - Không phải tên là núi Màn Thầu sao?

-Đó là tên gọi thông tục, tên chính xác của ngọn núi ấy là Bậc Thang, tên gọinày do vua Trương Quỹ nhà Tiền Lương đặt. Nhưng bà con quen gọi là núi MànThầu, không ai chịu đổi cách gọi.

Rồiông ta nhìn tôi ngạc nhiên:

-Vì sao phu nhân lại tỏ ra hào hứng với tên gọi của ngọn núi đó vậy?

-À… không có gì, chỉ vì tôi hơi tò mò thôi.

Tôicười gượng gạo, nhấp một ngụm trà, im lặng, để Rajiva tiếp tục bàn bạc chi tiếtvới Lý Cảo.

Bâygiờ tôi mới biết, núi Màn Thầu mà người dân Guzang thường gọi chính là núi BậcThang được ghi chép trong sách sử. Do chiến tranh xảy ra liên miên, lại trảiqua nhiều trận động đất, nên những bức bích họa trong chùa hang đá trên núi BậcThang ở Vũ Uy không còn giữ được nguyên vẹn, vào thời hiện đại, chùa không mấy nổitiếng. Nhưng đó là ngôi chùa hang đá đầu tiên ở Trung Nguyên, điều này có ýnghĩa vô cùng to lớn. Sau khi tiêu diệt Bắc Lương, vua Bắc Ngụy đã đưahàng loạt nhà sư đến kinh đô Bình Thành (nay là Đại Đồng, Sơn Tây, Trung Quốc),bên cạnh đó là hàng loạt các nhà điêu khắc, thợ thủ công lành nghề, họa sĩ, những người chuyên khai mở động đá và sáng tạo nên những bức bích họa. Họđã trở thành lực lượng nghệ nhân hùng hậu, là những người xây dựng nên thạchđộng Vân Cương vĩ đại ở Đại Đồng. Sau đó, Vua Hiếu Văn Đế nhà Bắc Ngụy dời đôđến Lạc Dương, tiếp tục xây dựng thạch động Long Môn, thạch động này đã thừa kếmô hình thạch động ở Lương Châu ngày trước…

Phầnlớn các nhà sư ở Lương Châu đều được đưa đến Bình Thành, nhưng vẫn có một số ítdi chuyển tới Đôn Hoàng ở phía Tây. Kiến trúc của thạch động Mạc Cao ở ĐônHoàng cũng chịu ảnh hưởng từ thạch động trên núi Bậc Thang. Bởi vậy, có thểkhẳng định một cách chắc chắn rằng, thạch động trên núi Bậc Thang chính là nơikhởi thủy của nghệ thuật xây dựng thạch động ở Trung Nguyên. Nhưng một câu hỏicứ quẩn quanh trong đầu tôi. Tôi nhớ là thạch động Bậc Thang được xây dựng vàonăm 412 kia mà, và chính Mông Tốn, sau khi dời đô từ Trương Dịch đến Guzang đãhạ lệnh xây dựng thạch động này. Chuyện kể rằng, mẹ Mông Tốn lâm bệnh nặng,Mông Tốn đã cho điêu khắc trong thạch động một bức tượng cao năm mét, hìnhnhững giọt nước mắt, để cầu phúc cho mẹ mình, cũng là để biểu thị lòng ăn năn,sám hối.

Rấtnhiều ghi chép cho thấy, Rajiva đã không thành công trong việc thực hiện kếhoạch xây chùa, mà chính Mông Tốn đã hoàn thành tâm nguyện này của chàng. Rốtcuộc, chuyện gì đã xảy ra? Vì sao suốt mười sáu năm Rajiva không thể xây đượcchùa ở Guzang? Không có trong tay tư liệu lịch sử để có thể suy đoán, nên tôicũng chỉ đành chống mắt chờ xem việc gì sẽ diễn ra. Nhìn chàng đang hào hứng môtả cấu trúc của ngôi chùa hang đá cho Lý Cảo nghe, tôi suy nghĩ một lát vàquyết định không nói với chàng chuyện kia. Khó khăn lắm chàng mới tìm được chomình một mục tiêu, tôi không nỡ phá hỏng niềm vui của chàng. Nhớ đến Mông Tốn,bất giác thở phào. Ngay ngày Lữ Quang trở về Guzang, Đỗ Tấn và Đoàn Nghiệp đã mang đến cho chúng tôi lương thực và vật dụng sinh hoạt cần thiết. Bởivậy tôi không cần đến nhà Mông Tốn giảng bài nữa. Tôi đến đó chỉ để đổi lấy lươngthực, nay lương thực đã có đủ, tôi không muốn phải ngày ngày đối diện với conngười xảo quyệt, gian hùng ấy trong nỗi thấp thỏm lo âu nữa. Nhưng tôi biếtchắc chắn anh ta sẽ không dễ dàng từ bỏ như vậy. Có thể, chỉ vài ngày nữa, tôisẽ chạm mặt anh ta cũng nên!

Chúngtôi rời khỏi nhà Lý Cảo, đi qua lầu trống vẫn thấy hàng dài những người dânvùng thiên tai, mặt mày ủ rũ đứng xếp hàng nhận hạt giống. Hôm nay là hạn đăngký cuối cùng, không có các cậu ấm nhà họ Lữ, chỉ thấy con trai thứ của Lữ Bảo(em trai Lữ Quang) là Lữ Siêu đang giám sát việc đăng ký. Lữ Siêu mới hai mươituổi, nhưng tâm địa nham hiểm hơn mấy người anh em họ của hắn rất nhiều. LữSoạn soán ngôi chưa đầy ba năm, đã bị Lữ Siêu giết chết, sau đó hắn đưa ngườianh ruột Lữ Long của mình lên ngôi vua. Nhớ đến những ghi chép về việc Rajivadự báo Lữ Siêu sẽ giết Lữ Soạn trong sách “Tấn thư” mà tôi không nhịn nổi cười.

Rajivacúi đầu hỏi:

-Cười gì vậy?

Tôighé sát vào tai chàng, thì thầm:

-Sử sách viết rằng, chàng chơi cờ với Lữ Soạn. Hắn ăn một quân của chàng và bảorằng: “Lấy đầu Hồ nô”[1]. Chàng đáp lại: “Hồ nô lấy đầu ngài thì có”.

[1]Hồ nô: Nghĩa là tên nô lệ người Hồ, vốn là cách gọi miệt thị của người Hán đốivới dân tộc thiểu số, du mục ở phía Bắc và phía Tây Trung Quốc, trong trườnghợp này, cụm từ “lấy đầu Hồ nô” biểu thị tính hiếu chiến, ác bá của Lữ Siêu.

Tôiđưa mắt về phía Lữ Siêu đang đứng giữa đám đông, chu mỏ lém lĩnh:

-Tên chữ của Lữ Siêu là Hồ Nô, nên đoạn sử này là căn cứ để chứng minh cho tàinăng tiên đoán của chàng.

Rajiva hết ngơ ngác nhìn Lữ Siêu, lại ngạc nhiên quay sang nhìn tôi, sau đó thìlắc đầu cười trừ.

Tôinhận ra Hô Diên Bình giữa đám đông. Mấy ngày trước, tôi đều bế Cẩu Nhi đứng chờở điểm đăng ký, nhưng không có kết quả. Hôm nay phải đến gặp Lý Cảo, nên tôinhờ Hô Diên Bình thay tôi đến đây chờ. Nhìn thấy chúng tôi, anh ta vội bướclại.

-Pháp sư, phu nhân!

Anhta cúi chào chúng tôi với vẻ buồn bã.

-Phu nhân, tôi vừa gặp một đồng hương của Tần Tố Nga, tôi đã có thông tin về mẹCẩu Nhi…

-Tình hình thế nào? Tôi sốt ruột. Gương mặt đôn hậu ấy nhuốm vẻ buồn bã, giọngnói đầy bi lụy: - Cô ấy… đã… chết…

Tôinhắm mắt lại, quay đầu đi, vẫn là kết cục đó, mới hai tuổi, Cẩu Nhi đã trởthành trẻ mồ côi.

Rajiva nắm lấy taytôi, an ủi:

- Ngải Tình, chúng tahãy nhận nuôi Cẩu Nhi, đó cũng là di nguyện của mẹ chú bé.

Tôi gật đầu. Cẩu Nhilà nạn dân nhỏ tuổi nhất trong số các nạn dân được chúng tôi cưu mang. Hơn mộttháng qua, tôi đã dành rất nhiều sự quan tâm, chăm sóc cho đứa bé tội nghiệpnày. Tôi dạy em nói, dạy em đi, em ngày càng quấn tôi. Nếu tôi không thể mangthai, vậy hãy để Cẩu Nhi làm con cái của chúng tôi.

Hô Diên Bình đón lấytải gạo mà Lý Cảo tặng cho chúng tôi từ tay Rajiva, đặt lên vai. Đang định ravề, Hô Diên Bình bỗng ấp a ấp úng:

- Pháp sư, phu nhân,cả nhà Nghiêm Bình…

Anh ta ngừng lại, vẻmặt áy náy.

- Anh không cần phảilo lắng chuyện đó, gia đình anh không cần phải đi đâu cả.

Rajiva thấu hiểu tâmtư của anh ta, nên đã lựa lời nói trước.

Tôi cười, bổ sung:

- Anh đừng lo vấn đềhộ tịch, tôi sẽ nhờ ngài Đoàn Nghiệp thu xếp việc đó.

Hô Diên Bình như mở cờtrong bụng, vẻ mặt đầy xúc động và cảm kích:

- Công ơn to lớn củahai vị, Nghiêm Bình không biết lấy gì báo đáp. Hai vị có bất cứ việc gì cần đếnNghiêm Bình, dù phải chết cũng không từ nan. Tôi sẽ gắng sức tìm chỗ ở mới đểkhông làm phiền hai vị thêm nữa.

Rajiva hiền hòa đáp:

- Anh đừng khách khí,vợ chồng ta đã coi gia đình anh như người trong nhà, anh đừng nghĩ ngợi nhiều.Gia đình anh đã phiêu bạt nhiều năm, cũng cần có chỗ để dừng chân nghỉ ngơichứ.

Vừa đi, Hô Diên Bìnhvừa không thôi nói lời cảm ơn, cho đến khi có ai đó đột nhiên hét lên từ phíasau chúng tôi:

- Hô Diên Bình!

Chúng tôi giật mìnhquay đầu lại, nhìn thấy trong đám đông nạn dân một người đang chỉ tay về phíaHô Diên Bình, lớn tiếng:

- Ngươi chính làHô Diên Bình! Thì ra ngươi vẫn còn sống!

Mặt mày Hô Diên Bìnhđột nhiên trắng bệch…