Trong số một nghìn nhà sư người Hán có mặt trong đại điện thì phầnlớn không tham gia trực tiếp vào quá trình dịch kinh, mà chỉ đến để quan sát và học hỏi. Họ cũng là những tăng sĩ mà Rajiva từ chối nhận làm đệtử. Họ ngồi xếp bằng phía dưới, ngóng lên phía trên, cả đại điện là mộtbiển áo cà sa màu vàng sẫm. Rajiva không mặc áo cà sa màu đỏ, hở vai như khi còn ở Tây vực mà chuyển sang mặc áo cà sa màu vàng sẫm, là trangphục truyền thống của các nhà sư Trung Nguyên. Kiểu dáng của chiếc áo cà sa này vẫn được lưu truyền đến tận ngày nay, hầu như không thay đổi.Chỉ có đại sư Buddhayassa là vẫn khoác áo cà sa Tây vực màu đỏ sẫm.
Rajiva và Buddahayassa tọa trên một chiếc giường thấp ngaydưới chân tượng Phật tổ, ở bục cao của đại điện. Một bên là các đệ tửKhâu Tử, phía bên kia là “Thập môn bát triết”: Tăng Triệu, Trúc ĐạoSinh, Đạo Dung, Tăng Duệ, Đạo Hằng, Đàm Ảnh, Tuệ Quán và Tuệ Nghiêm. Họ ngồi xếp bằng trên những chiếc giường gỗ thấp, trước mặt mỗingười đều có một chiếc bàn, trên bàn bày đủ đồ dùng dành cho việc viếtlách. Những ngày này, họ đang tập trung phiên dịch cuốn “Kinh pháp hoa”. Rajiva đọc to kinh văn này bằng tiếng Phạn một lần để các đệ tử Khâu Tử ghi chép lại. Đọc hết một đoạn, chàng lại quay sang thảo luận với đạisư Buddhayassa. Kế đó, các đệ tử Khâu Tử sẽ đọc lại phần kinh văn họ vừa ghi chép, Rajiva sẽ kiểm tra và bổ sung nếu có thiếu sót.
Sau đó, đoạn kinh văn bằng tiếng Phạn này được giao cho các đệ tửngười Hán ở phía bên kia. Rajiva đọc một câu kinh bằng tiếng Phạn, tựmình dịch sang tiếng Hán, các đệ tử người Hán chép lại câu dịch. Trướcđó, Rajiva đã giảng giải cho tôi nghe về vị trí, vai trò của từng ngườitrong toàn bộ chu trình dịch thuật.
Người đảm nhiệm việc ghi chép kinh văn gọi là “chấp bút”, đó phải làngười có trí nhớ tốt nên công việc này được giao cho Trúc Đạo Sinh.Người kiểm tra và so sánh bản dịch tiếng Hán với bản gốc tiếng Phạn được gọi là “chứng văn”, công việc này đòi hỏi người đảm nhiệm phải tinhthông cả tiếng Phạn và tiếng Hán, Rajiva tự mình gánh lấy trách nhiệmnày, Tăng Triệu trợ giúp thêm cho chàng. Người chau chuốt lại bản dịchđược gọi là “nhuận văn”, đó phải là người viết văn rất giỏi, công việcnày được giao cho Tăng Triệu và Trúc Đạo Sinh. Ngoài ra còn có ngườikiểm tra và xác nhận độ chính xác về mặt ngữ nghĩa của bản dịch, gọi là“chứng nghĩa”, do Đạo Hằng và Đàm Ảnh đảm nhiệm công việc khảo đính, đối chiếu và sửa từng câu chữ trong bản dịch. Nhà vua cũng có lúc tham giavào quá trình này, gọi là “xuyết văn”.[1]
[1] Tham khảo cuốn “Mười lăm vấn đề của Phật giáo” của học giả QuýTiễn Lâm, Trung Quốc. Từng câu chữ đều phải tuân thủ quy trình dịchthuật hết sức nghiêm ngặt và đầy trách nhiệm. Mùi hương trầm tỏa lantrong không gian, ngay dưới bức tượng với gương mặt từ bi của Phật tổ,là thái độ làm việc hết sức cần mẫn, nghiêm túc của mỗi nhà sư. Họ đangtham gia vào một công việc vĩ đại, mà thành quả của nó lưu truyền đếnngàn đời sau.
- Thưa thầy!
Trúc Đạo Sinh đang ghi chép, bỗng ngẩng lên, cung kính thưa:
- Năm xưa, cao tăng Trúc Pháp Hộ cũng từng dịch cuốn kinh này, ĐạoSinh còn nhớ, ngài dịch đoạn kinh văn này là “Trời thấy người, ngườithấy trời”.
Rajiva gật đầu:
- “Trời thấy người, người thấy trời”, đoạn kinh văn này rất sát vớingữ nghĩa trong tiếng Tây vực, nhưng hơi khô cứng, thiếu trau chuốt.
Chàng bước xuống, cất bước chậm rãi dạo qua các đệ tử, giọng chàng trầm ấm:
- Người Thiên Trúc đặc biệt coi trọng vần điệu trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, chốn cung đình lại càng chú trọng hơn đến âm vận, đề caoviệc âm hợp với điệu đàn. Người ta thường ca ngợi công đức của các đấngquân vương thành tâm tín Phật bằng những câu hát. Các bài kệ trong kinhvăn cũng đều được ngâm vịnh theo dạng thức xướng tụng của Thiên Trúc.Nhưng nếu chuyển dịch nguyên bản những câu kệ đó sang tiếng Hán, thìmặc dù có thể truyền đạt được đại ý nhưng chắc chắn sẽ làm mất đi âmvận, nhịp điệu, tính nhạc của nguyên tác. Điều này giống như việc, chúng ta đã nhai nát cơm rồi mà còn đem cho người khác ăn, không những mất đi hương vị ban đầu mà còn khiến người ta ghê sợ.
Chàng chầm chậm cất bước, lời nói chứa bao điều sâu xa:
- Dịch kinh Phật phải chú trọng tới sự cân bằng giữa “thông tục” và“bay bổng”. Nếu cố bám sát nguyên nghĩa, văn dịch sẽ trở nên thông tục,khô khan. Nếu sa đà vào cách hành văn hay vần điệu sẽ mắc lỗi bay bổng,cầu kỳ. Cả hai lỗi này đều có thể khiến bản dịch trở nên lệch lạc. Phảilàm sao để văn chương thông thuận, nghĩa lý trở nên tròn đầy, đó chínhlà trách nhiệm của người dịch kinh.
Ai nấy đều lắng nghe rất chăm chú và trăn trở về mối quan hệ giữaphương pháp dịch ý và dịch nghĩa. Tăng Duệ đột nhiên giơ cao cánh tayphải vẫn đang cầm bút, nói:
- Thưa thầy, dịch là: “Người với trời gặp gỡ trong một thể giao hòa” có được không ạ?
Rajiva quay người lại, vui mừng nhìn Tăng Duệ:
- Câu này dịch khá lắm, vẫn giữ được ý tứ nguyên tác lại vừa trôi chảy, thanh thoát.
Sau đó, chàng quay sang Trúc Đạo Sinh:
- Đạo Sinh, con hãy chép câu này lại. Chàng nhìn khắp lượt các nhà sư, cất giọng sang sảng:
- Rajiva là người Tây vực, tuy sống ở đất Hán nhiều năm, nhưng khôngthể thông thạo ngôn ngữ của người Hán như người gốc Hán, do vậy trongquá trình dịch thuật, khó tránh khỏi sai sót, các vị không được thờ ơvới những sai sót ấy. Kinh văn có được chuyển dịch chính xác và thànhcông hay không, không thể chỉ dựa vào sức lực của một mình ta.
Tôi ngồi trên đệm cói, mỉm cười ngắm nhìn con người bận rộn ấy, hạnhphúc dâng tràn trong tim. Chồng tôi lúc nào cũng là một con người khiêmtốn, hiếu học, nhiệt thành với học trò, khiêm cung và mẫu mực. Tuệ Giảođánh giá chàng là người: “Thuần hậu, đức độ, nhân ái, bao dung, khiêmcung, hiếu học, cần mẫn, miệt mài”. Những lời khen ngợi này không hềkhoa trương chút nào.
Kết thúc một ngày, tôi trở về nơi ở cùng chàng sau giờ tụng kinh buổi tối, khi ấy, mặt trời đã ngả về tây, ánh hoàng hôn rực rỡ chiếu rọithần thái an nhiên, tự tại của chàng. Tôi mê mải ngắm nhìn chàng, nụcười đậu mãi trên môi. Chàng nhìn tôi cười, cũng cười theo. Gió nhẹ thổi qua, mang theo hương hoa dìu dịu, tôi nắm tay chàng, cùng nhau bước vềnhà…
Chương92: Mưu kế của Mộ Dung Siêu
Tôichầm chậm cất bước trên những bậc đá của lối đi dẫn lên đỉnh Tử Các Phong,thuộc dãy núi Chung Nam Sơn, mở căng lồng ngực, hít hà thật sâu bầu không khítrong lành, tinh khôi cuối tuần này. Nơi ở của Rajiva giống như một bệnh việnđiều dưỡng cao cấp thời hiện đại với danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp và không khítĩnh mịch, thanh bình. Ven đường là những hàng tùng bách cao vút, và những khómtre trúc xanh ngút ngàn, tỏa bóng râm mát. Đình hóng gió, vọng lầu thấp thoángẩn hiện trên những đỉnh đồi cheo leo phía xa xa, khung cảnh rất đỗi yên bình,nên thơ. Mỗi buổi sáng, sau khi Rajiva đến chùa, tôi đều tới ngọn núi KhuêPhong cách nhà không xa để leo núi, tập thể dục. Hôm nay đột nhiên nảy ra ýđịnh muốn leo lên một ngọn núi khác của ngọn Tử Các Phong, nhưng tôi không tìmthấy Mộ Dung Siêu đâu cả, nên đành đi một mình.
Mấyngày chinh phục ngọn Khuê Phong, đều có Mộ Dung Siêu đi cùng, cậu ra nói rằngmuốn rèn luyện sức khỏe. Nhưng tôi biết, cậu ta muốn tôi giúp để có thể liênlạc với chú mình. Một nguyên nhân nữa là vì Mộ Dung Siêu rất muốn được nghe tôikể tiếp cậu chuyện về Lưu Bang và Hạng Vũ năm xưa. Kể hết chuyện Lưu Bang, HạngVũ, lại kể sang “Tam quốc sách”. Người mẹ Sính Đình của cậu ta tuy rất giỏi thơphú, nhưng cô ấy không mấy hứng thú với những câu chuyện lịch sử chém giết đẫmmáu. Hô Diên Bình không phải là người hay chữ, nên cũng không thể truyền dạynhững kiến thức đó cho Mộ Dung Siêu. Nhà lại nghèo, không mua nổi sách, nayđược tôi giảng giải cho nghe, cậu ta đương nhiên rất vui mừng. Ngày nào cũngđòi tôi kể chuyện, và chỉ khi nào tôi phải đi xử lý công việc, cậu ta mới chịu“buông tha” cho tôi với nỗi tiếc nuối ngập tràn.
Leođến lưng chừng núi, muốn dừng lại nghỉ ngơi ở một đình hóng gió, nên tôi đã mentheo một lối đi nhỏ hoa lê nở đầy. Được mấy bước, chợt tôi nhìn thấy trong đìnhcó hai bóng người: Một thanh niên cao lớn, tráng kiện, vận quần áo màu thiênthanh nho nhã, lịch lãm và một thiếu nữ váy hồng yêu kiều tha thướt. Chàng traiđang trầm ngâm dõi mắt nhìn dãy núi xa xa, cô gái im lặng cúi đầu, đứng phíasau. Trai thanh gái lịch, váy hồng liễu xanh, tạo nên một khung cảnh thơ mộng,lãng mạn. Chỉ có điều, khi nhận ra họ là ai, tôi bỗng thấy kinh ngạc và khó xử.
Chảtrách, sáng sớm đã không thấy Mộ Dung Siêu đâu, thì ra cậu ta bận chạy đến chỗnày hẹn hò. Cô gái xinh đẹp kia, không phải vợ cậu ta, mà là một trong cácthiếu nữ Lương Châu đang trú ngụ tại nhà chúng tôi: Yến Nhi.
Đúnglúc tôi đang bối rối không biết có nên tránh đi hay không, thì họ nghe thấytiếng bước chân tôi. Họ quay đầu lại, và khi nhận ra tôi, cả hai đều đỏ mặt,rồi cả hai cùng bối rối. Tôi nhếch môi cười, quay lưng bỏ đi.
-Cô cô, xin dừng bước!
MộDung Siêu lao đến giữ tay tôi lại, rồi quay sang nói với Yến Nhi:
-Cô về trước đi.
YếnNhi nhìn tôi bằng ánh mắt rất phức tạp, mặt đỏ như gấc chín, rảo bước qua tôi,vội vã xuống núi. Tôi đi theo Mộ Dung Siêu vào đình hóng gió, bóng chiếc váyhồng ngày càng khuất dần. Họ bắt đầu từ khi nào vậy? Sao tôi không hề hay biết?Yến Nhi bảo rằng, cô ấy ái mộ Rajiva ngay từ lần gặp đầu tiên mà! Lẽ nào bâygiờ cô ấy chuyển sang mục tiêu khác?
MộDung Siêu đứng bên cạnh tôi, vạt áo thiên thanh phất phơ trong gió, ánh nắngbuổi sớm tỏa rạng, càng làm nổi bật vẻ điển trai, thư sinh của cậu ta. Chàngtrai trẻ này trẻ trung, đẹp trai là thế, lại mang trong mình khí chất cao quýbẩm sinh của dòng dõi Mộ Dung, Yến Nhi từ bỏ Rajiva mà theo đuổi cậu ta cũng làđiều dễ hiểu. Nghĩ như vậy, nỗi bực bội của tôi khi nãy tan dần.
Nhưng,tôi vẫn không kìm được một tiếng thở dài:
-Siêu ơi, cháu làm như vậy là có lỗi với vợ cháu.
Cậuta sững sờ, mặt đỏ như gấc, lắp bắp:
-Cháu… cháu không… chị ấy cũng sẽ không…
Đếnlượt tôi sững sờ. Trầm ngâm hồi lâu, tôi quay mặt sang hướng khác, ngắm nhìnnhững dãy núi trùng điệp, tươi xanh ngợp mắt. Đúng vậy, Mộ Dung Siêu không chorằng như thế là phản bội vợ mình. Cậu ta kết hôn rồi thì sao? Ở thời đại này,đàn ông có quyền năm thê bảy thiếp. Hô Diên Tĩnh dẫu có biết chuyện, cũng chỉlặng lẽ tủi thân mà thôi. Cô ấy hiền lành, dễ chịu là thế, rất có thể sẽ dễdàng chấp nhận việc Yến Nhi làm vợ lẽ của Mộ Dung Siêu. Ngày sau, Mộ Dung Siêusẽ trở thành vua một nước, dù chỉ là một quốc gia nhỏ bé, thế lực yếu mỏng,không có đủ tam cung lục viện như bao Hoàng đế khác, nhưng chắc chắn, cậu ta sẽkhông chỉ có một người vợ là Hô Diên Tĩnh.
Cóđiều, tôi đến từ thế kỷ XXI, tư tưởng một vợ một chồng đã ăn sâu vào tiềm thức.Tôi lại được chứng kiến đôi trẻ sống bên nhau, cùng nhau vượt qua hoạn nạn từthuở nhỏ. Mấy ngày qua, tôi đã để ý và biết rằng Hô Diên Tĩnh rất nặng lòng vớiMộ Dung Siêu. Thế nên, cứ nghĩ đến việc cậu ta phản bội vợ mình, tôi lại cảmthấy buồn bực trong lòng.
-Cô cô giận cháu ư?
MộDung Siêu đặt tay lên vai tôi. Quay đầu lại, nhận thấy vẻ ngạc nhiên lạ lùngxen lẫn nỗi lo lắng trong mắt cậu ta. Tôi lên tiếng:
-Siêu à, lẽ ra cô không nên can dự vào chuyện này, nhưng thực lòng cô không muốnthấy cháu có năm thê bảy thiếp, nay người này mai người khác, không chung tình,chung thủy.
-Cô hiểu nhầm rồi. Cháu và cô ấy không có chuyện gì cả. Gần đây, cô ấy cứ lénlút tặng quà cho cháu, lúc thì túi thơm, lúc thì giày vải, lúc lại túi thêu…Cháu hiểu ý tứ của cô ấy, nên hôm nay hẹn riêng cô ấy đến đây để nói rõ ràng,cháu chưa có ý định cưới vợ lẽ. Vậy là tôi đã trách nhầm cậu ta! Tôi gãi đầu,cười gượng gạo. Không ngờ Mộ Dung Siêu lại là người nguyên tắc như vậy. Yến Nhixinh đẹp hơn Hô Diên Tĩnh nhiều, vậy mà cậu ta không hề động lòng.
-Lúc này mà tính chuyện nạp thiếp là thiếu lý trí. Cháu chỉ tạm thời lưu lạiTrường An để tìm kiếm cơ hội liên lạc với chú cháu. Nếu cưới Yến Nhi, một mìnhcháu phải chăm sóc ba người phụ nữ, đường đi xa xôi, hiểm trở, giữa thời buổibinh đao loạn lạc này, cháu làm sao gánh vác nổi.
Tôihá hốc miệng, rồi tự phạt bằng việc đánh vào đầu mình một cái. Vì sao đầu óctôi lúc nào cũng toàn nghĩ đến chuyện yêu đương thế nhỉ? Tôi đã quên mấtngười trước mặt mình là Mộ Dung Siêu, người mà lúc nào cũng chỉ nghĩ đến vươngvị, quyền lực, mà không phải tình yêu.
Cậuta chăm chú quan sát phản ứng của tôi, ánh mắt lấp lánh những ý tứ khó hiểu.Tôi lắc đầu, buồn nản:
-Nắng quá, chúng ta về thôi.
Cậuta kéo tay tôi lại, thận trọng rút từ trong người ra một túi vải bọc gì đó khádài. Đó là một thanh gươm cong, chừng bảy, tám tấc, bao gươm dát vàng, nạm ngọcngà châu báu lấp lánh. Cậu ta nâng niu thanh gươm vàng trong tay, rút ra khỏivỏ, lưỡi gươm sắc nhọn, phản chiếu thứ ánh sáng buốt lạnh. - Đây là di vật bànội cháu để lại trước lúc lâm chung. Năm xưa, khi ra đi, chú cháu đã nói rằngngày sau sẽ nhờ vào thanh gươm này để nhận nhau. Bà nội căn dặn rằng: nhất địnhphải tìm được chú cháu, nhất định phải khôi phục đại nghiệp của nhà Mộ Dung.
Tôilặng nhìn thanh gươm chứa nặng sự kí thác, lòng tin tưởng và khát vọng cháybỏng mấy đời nhà Mộ Dung. Ánh sáng lạnh lẽo hắt ra từ thanh gươm, chiếu rọitham vọng mãnh liệt dâng trào trong mắt Mộ Dung Siêu. Trong lòng đột nhiên thấybuồn ảo não, không ngăn nổi tiếng thở dài:
-Siêu ơi, những ngày qua cháu dành thời gian để leo núi cùng ta, hôm nay lại chota xem những thanh gươm này, mục đích là muốn ta giúp cháu chuyện gì?
Cậuta ngẩng lên, vẻ ngượng ngập:
-Cô cô biết cả rồi ư?
Cậuta suy nghĩ một lát, rồi nhìn tôi nghiêm nghị:
- Mẹ kể với cháu rằng, năm xưa ở Guzang, cô cô từng kết giao với Lý Cảo,Đoàn Nghiệp, Đỗ Tấn và cả Thư Cử Mông Tốn nữa. Bọn họ đều rất mực nể trọng phápsư và cô cô. Những người này không hề tầm thường, họ nể trọng cô bởi vì cô cóđiểm gì đó hơn người. Những ngày qua được nghe cô bàn chuyện kim cổ luậnviệc giang sơn, cháu lấy làm cảm phục vô cùng. Người phụ nữ tài giỏi như cô,trên đời này thực là khó kiếm. Đột nhiên cậu ta quỳ xuống, nhìn tôi khẩn thiết:
-Cô cô đã nhiều lần cứu mạng cháu, ngày sau cháu nhất định sẽ báo đáp. Khôngbiết, cô cô có thể chỉ cho cháu cách liên lạc với chú cháu được không?
Tôikinh ngạc, dạt sang bên, né tránh rồi cất giọng bình thản:
-Cháu đứng lên đi, cô là đàn bà con gái, không thể giúp cháu bày mưu tính kế.
Tôiđã suy nghĩ rất kỹ và quyết định rằng, dù tôi không thể thay đổi đường đi củabánh xe lịch sử, dù rằng số phận của Mộ Dung Siêu đã được an bài như ghi chépcủa sử sách, nhưng kết cục bi thảm ấy không thể bắt nguồn từ việc tôi vạchđường chỉ lối cho cậu ta được. Tôi không thể nhẫn tâm nhìn đứa trẻ đã cùng tôitrải qua những ngày tháng gian nan nhất của cuộc đời lao đao vào con đườngnghiệt ngã ấy…
Cậuta vẫn kiên tâm quỳ lạy, không chịu đứng lên, khuôn ngực phập phồng, ánh mắtchờ đợi:
-Cô ơi, chú cháu không có con trai nối dõi, cháu là người thân thiết của chú ấy.Nếu tìm được chú ấy, cháu sẽ lên ngôi vua, cháu sẽ phong cho cô tước vị mệnhphụ cao quý, để cô cháu ta được cùng nhau chung hưởng vinh hoa phú quý.
Tôinhìn cậu ta đầy ngỡ ngàng, gương mặt ấy tràn đầy niềm tin vào tương lai sánglạn, có lẽ trong đầu cậu ta lúc này, chỉ có hình ảnh của chiếc ngai vàng lấplánh. Lòng tôi chợt chùng xuống, buồn vô hạn, cậu ta muốn mua chuộc tôi bằngtiền bạc và quyền lực ư? Quốc gia nhỏ bé của cậu ta ngày sau chiến tranh liênmiên, thoi thóp trong sự kìm kẹp của các nước lớn, “đất đai chừng mười thànhthị, dân số chừng vài vạn người”. Để chuộc lại người mẹ và người vợ mà cậu tabỏ rơi ở Trường An, cậu ta đã phải bắt cóc các ca kĩ của Đông Tấn (vì cậu takhông tìm nổi ca kĩ trong cái quốc gia quá nhỏ bé, dân số quá ít ỏi của mình)dâng cho Diêu Hưng. Lưu Dục đã viện vào cớ này để gây chiến, chưa đầy sáu năm,tiểu quốc của cậu ta đã bị tiêu diệt. Vậy mà cậu ta dám nói chuyện vinh hoa phúquý với tôi!
Tôitrả lời lạnh lùng:
-Siêu à, cháu đánh giá quá cao mảnh đất nhỏ bé của chú cháu rồi đấy. Vinh hoaphú quý ư? Cháu cho rằng cháu có thể ngồi yên trên ngai vàng ấy sao? Cháu chorằng một khi có được vương vị thì có thể làm bất cứ chuyện gì cháu muốnsao? Cháu có biết, chính cái ngai vàng mà ngày đêm cháu mơ tưởng ấy sẽ khiếncháu mất mạng chỉ trong một thời gian ngắn không?
Ngọnlửa trong mắt Mộ Dung Siêu ngay lập tức bị dập tắt, cậu ta nhìn tôi đăm đăm,miệng há hốc, nhưng không nói được lời nào. Tôi quay gót bước đi, ra khỏi đình,bỗng dừng lại:
-Cháu từ bỏ ý nghĩ đó đi. Cháu còn gọi ta là cô cô ngày nào, cô sẽ không nói bấtcứ điều gì cho cháu cả.
Dứtlời, không buồn nhìn cậu ta nữa, tôi lẳng lặng xuống núi, cậu ta không đi theo.Về đến nhà, một dự cảm bất an dâng lên trong tôi, Mộ Dung Siêu chắc chắn khôngdễ dàng từ bỏ như vậy…
Chủđề này được lặp lại nhiều lần vào những ngày leo núi tiếp theo. Cậu ta khiếntôi bực mình, giận quá tôi không nói chuyện với cậu ta nữa. Mấy ngày liền cậu takhông đi leo núi cùng tôi, chờ khi tôi nguôi giận, mới lại xuất hiện trong đìnhhóng gió trên sườn núi Khuê Phong. Cậu ta tỏ ra ngoan ngoãn hơn, không dám nhắcđến chuyện kia nữa. Và tôi, sau rốt, vẫn không thể lạnh lùng với cậu ta mãiđược. Tôi cho phép cậu ta tiếp tục leo núi cùng mình.
Đứngtrong đình hóng gió, tôi vừa thở hổn hển, vừa phóng tầm mắt ra xa chiêm ngưỡngnúi non hùng vĩ. Khi ấy đã là cuối tháng năm, hơi nóng lan trong gió, mồ hôiđầm đìa lưng áo.
Cóvật gì đó đột ngột xuất hiện trên trán, khiến tôi giật mình. Mộ Dung Siêu taycầm mảnh khăn, đôi mắt to, lấp lánh mê hoặc, nụ cười rạng rỡ:
-Cô ơi, mồ hôi nhễ nhại trên trán cô rồi kìa, để cháu lau cho cô.
Cậuta tiếp tục xích lại gần tôi, chực đưa tay lên trán tôi, mùi hương đặc biệttrên cơ thể của chàng trai trẻ bay vào mũi tôi, sự gần gũi ấy khiến tôi bốirối, tôi vội quay đi hướng khác, né tránh:
-Cô cũng có khăn tay, để cô tự lau.
Cậuta dừng lại, vẫn cười rất tươi, hàng lông mày thanh tú rướn cao, rất mực hàohoa, phong độ. - Cô có khát không?
Tôigật đầu. Giữa đường, Mộ Dung Siêu sơ ý đánh rơi túi nước, nên tôi đành chia mộtnửa nước cho cậu ta. Thời tiết hôm nay quá ư oi bức, cậu ta uống hết nửa túi màvẫn kêu khát, tôi lại phải đưa nốt nửa túi nước còn lại của mình cho cậu ta. MộDung Siêu suy nghĩ một lát, rồi ngẩng đầu lên, mỉm cười tinh nghịch, kéo taytôi, lôi đi:
-Cháu biết chỗ nào có nước!
Tôithấy hơi khó chịu vì bị kéo đi như thế. Gần đây, cậu ta thường hay đụngchạm vào người tôi, lúc thì nắm tay, lúc thì lại dìu tôi đi, và luôn ra sức thểhiện sự quyến rũ, nam tính trước mặt tôi. Tôi hơn cậu ta những mười ba tuổi,nên luôn đặt mình vào vị trí là bề trên của cậu ta. Nhưng những ngày qua, cáchcậu ta nhìn tôi, dường như không phải là thái độ của người bề dưới đối vớingười bề trên. Tôi gỡ tay cậu ta ra, bảo rằng tôi tự đi được. Trong lòng thấpthỏm lo âu, cầu mong sao, chuyện chỉ là do tôi đa nghi mà thôi.
Trướcmắt tôi là một dòng suối tinh khiết len qua khe núi, chảy xuống một hồ nướctrong vắt. Chốc chốc lại có vài chú chim ríu rít vỗ cánh bay lên từ mặt hồ,khung cảnh thanh bình, yên ả lạ lùng. Cảnh sắc nên thơ ấy khiến tôi gạt qua mọiưu tư, vừa vỗ tay, vừa hứng khởi chạy đến bên dòng nước. Tôi vốc nước lên mặt,làn nước xanh trong, mát lạnh chạm vào da thịt, cảm giác thoải mái, dễ chịu lantỏa khắp cơ thể tôi.
Rửamặt xong, tôi thấy Mộ Dung Siêu đã cởi bỏ áo ngoài, cánh tay để trần,từng đường nét trên tấm lưng vạm vỡ hiện lên rõ rệt, làn da trắng bóc, sức trẻtoát ra từ cơ thể khỏe khoắn của cậu ta. Cơ bắp cuồn cuộn trên cánh tay, trênbả vai, những múi thịt chắc nịch ở phần bụng, những giọt nước chạm vào cơ thểcậu ta, long lanh màu mật ong dưới ánh nắng mặt trời, chầm chậm chảy xuống, hấpdẫn khó tả.
Cậuta quay sang nhìn tôi, khóe môi uốn cong thành một nụ cười mê hoặc, sau đó cởibỏ giày, tất, xắn cao quần, bước xuống nước. Cậu ta cười vang, té nước vàongười tôi. Tôi mắng vui mấy câu, rồi cũng tháo giầy, cởi tất, ngồi trên bờ, thảchân trần xuống nước. Làn nước trong veo, mát lạnh ôm ấp cổ chân tôi, tôi đặtchân lên một hòn đá cuội vừa tròn vừa trơn, nhắm mắt tận hưởng ngọn gió nam ấmáp.
“Àoào”, nước bắn xối xả về phía tôi, tôi vừa mở mắt đã bị kéo dậy: - Cô ơi, côxuống nước đi, thoải mái lắm. Chưa kịp phản ứng, tôi đã bị cậu ta lôi đi, viênđá dưới chân tôi rất trơn, tôi gào thét yêu cầu cậu ta đi chậm lại nhưng cậu takhông nghe, tôi bồn chồn lo lắng, hình như cậu ta cố ý làm vậy. Tôi nghiêm nghịnói với cậu ta rằng tôi muốn trở lại bờ, vừa vùng thoát khỏi một cánh tay, thìcánh tay kia của cậu ta đã vòng ra trước ngực túm lấy tôi. Sau đó cả hai cùngngả người chới với về phía sau, tôi thấy mình bị kéo ngã nhào xuống nước.