Đa La Bồ Tát ngồi kiết già, trang nghiêm trên tòa sen nguyệt luân.
Đa La Bồ Tát hiện thân pháp tướng của một thiếu nữ xinh đẹp, đó là dáng vẻ của nàng khi còn là công chúa Bát Nhã Nguyệt của nước Thải Quang, đầu đội mũa Ngũ Phật Bảo, mình mang thất bảo, toàn thân xanh biếc, khuôn mặt lộ ra vẻ từ bi.
Tay trái của Đa La Bồ Tát đưa ra phía trước, đặt trên đầu gối phải, làm dấu thí nguyện ấn. Tay phải đặt trước ngực, cầm đóa hoa Ô Ba La.
Đa La Bồ Tát đang nhập vào cảnh giới thiền định, đây là một thực hành tâm thức mà các vị Phật Bồ Tát đều phải thực hiện định kỳ. Biểu cảm của ngài thật từ bi và an hòa.
Trong cảnh giới thiền định, có tam giới lục đạo, vạn pháp môn. Các Bồ Tát mở ra huệ nhãn của tâm, giao tiếp với các pháp thân và ý thức khác của mình trong ba nghìn thế giới, từ đó càng hiểu sâu rộng hơn về thế giới này và kết nối tinh thần với chúng sinh, nhằm dùng Phật pháp phổ độ họ và đồng thời tu luyện nội tâm của chính mình, củng cố thêm tín niệm.
Đa La Bồ Tát trong thiền định, liên kết tinh thần với chính mình trong ba nghìn thế giới, nàng thấy chúng sinh đang chìm đắm trong ngũ dục, luân hồi lục đạo, chịu đựng vô vàn khổ nạn trong biển sinh tử không bờ bến. Một số thậm chí trong cảnh khổ sở giãy giụa đã biến thành ma.
Đa La Bồ Tát cảm thấy thương xót chúng sinh, và những giọt lệ từ bi rơi xuống trên gương mặt trang nghiêm.
Chúng sinh đang bị hành hạ bởi biển khổ của thất tình lục dục, chịu đựng mọi khổ đau vô lượng, đời đời kiếp kiếp, trầm luân trong khổ ải.
Chúng sinh đau khổ khẩn cầu, cầu cứu thần Phật.
Đa La Bồ Tát thương cảm chúng sinh, bèn phóng Phật quang để cứu độ họ.
Tuy nhiên, ngài đã dùng hết sức lực, cạn kiệt tâm lực, tỏa ra Phật quang nhưng vẫn không thể cứu rỗi toàn bộ chúng sinh khỏi biển khổ.
Ngài không ngừng cứu độ chúng sinh, giống như một ngôi sao rực rỡ, dấn thân vào vũ trụ đen tối.
Ngôi sao ấy muốn dùng ánh sáng của mình để chiếu rọi bóng tối vô tận của vũ trụ.
Ngôi sao hết lần này đến lần khác dấn thân vào bóng tối, dốc hết sức mình, tỏa sáng để soi đường cho những linh hồn lạc lối và bế tắc.
Nhưng do không ngừng lao vào bóng tối, mỗi khi tỏa ra ánh sáng, một phần bóng tối luôn bám lấy ngôi sao như bóng với hình.
Ánh sáng của ngôi sao dần bị bóng tối xâm chiếm, trở nên yếu ớt. Từ một ngôi sao sáng rực rỡ, nó trở thành một đốm lửa nhỏ bé mờ nhạt.
Mỗi khi ngôi sao dấn thân vào bóng tối, ma quỷ lại thì thầm bên tai ngài:
"Ngươi thấy không, ngươi ngày càng yếu đi."
"Ngươi đã cứu rỗi chúng sinh, nhưng ai sẽ cứu rỗi ngươi đây?"
"Ai sẽ cứu rỗi ngươi?"
"Ai... sẽ cứu ngươi..."
Qua từng lần thiền định, Đa La Bồ Tát dần mất đi ánh sáng của Phật tính, ngài bắt đầu không nhìn rõ chính mình.
Ba nghìn thế giới, pháp tướng vạn chúng sinh, khi nàng kết nối tinh thần với bản thân, ngài không còn nhìn rõ hình dạng của chính mình nữa.
Ngài không còn dung mạo, không còn thân thể, chỉ còn là một bóng xám mờ nhạt.
Năng lượng của ngài đã cạn kiệt, Phật quang đã tản mác, lòng ngài trống rỗng.
Ngài hiểu rằng ngày đại kiếp của mình đã đến.
Nếu không vượt qua được kiếp nạn, ngài sẽ diệt vong, từ đó tan biến.
Nếu vượt qua được kiếp nạn, ngài sẽ thành Phật, hóa thành vĩnh hằng.
Làm sao để vượt qua kiếp nạn đây? Là tiếp tục độ hóa thêm nhiều người nữa, cứu rỗi thêm nhiều chúng sinh nữa sao?
Nhưng Phật quang của ngài đã quá yếu, không thể soi sáng chúng sinh nữa, làm sao có thể độ hóa, cứu rỗi họ đây?
Trong cơn bối rối, từ ánh sáng xa xôi và vĩnh cửu, giọng nói của Phật Tổ vang lên:
"Ngươi mệt rồi, nhắm mắt lại và tạm thời nghỉ ngơi đi."
"Dùng pháp thân của ngươi đi đến nhân gian, tìm lại ánh sáng của mình trong tám nạn."
Đa La Bồ Tát nhắm mắt lại, nhưng ngài vẫn từ bi, nước mắt thương xót chúng sinh chưa kịp khô, đọng lại nơi khóe mắt.
Khi Đa La Bồ Tát nhắm mắt, ở nhân gian xuất hiện một thiếu nữ mặc y phục màu xanh.
Thiếu nữ áo xanh đi lại giữa cõi đời, chu du khắp nơi. Nàng bôn ba qua nhiều quốc gia, hòa mình vào dòng người, tìm lại ánh sáng đã mất của mình giữa những khát vọng của lòng người và khổ nạn của chúng sinh.
Dưới ánh trăng, một cô nương áo xanh đang ngủ giữa những nhánh cây Bồ đề.
Cô nương áo xanh có dáng người mảnh mai, dung mạo thanh tú, đôi mắt sáng ngời và tràn đầy lòng từ bi. Mái tóc đen dài buộc gọn một phần, phần còn lại xõa xuống, toàn thân nàng phát ra một ánh sáng trong suốt dịu dàng.
Dưới ánh trăng, cô nương áo xanh thức giấc.
Nàng nhìn lên bầu trời đêm rộng lớn qua những tán lá Bồ đề, ánh mắt ngây ngẩn.
Trăng sao cùng tỏa sáng, ánh trăng trong trẻo rạng ngời.
Đêm nay, gió mát, trăng thanh.
Cô nương áo xanh đưa tay lên, che nửa mắt, qua bàn tay ngọc ngà, nàng nhìn ánh trăng, che đi sự mơ hồ trong ánh mắt mình.
Nàng lại mơ thấy giấc mơ đó.
Trước khi đại kiếp xảy ra, Phật Tổ đã bảo nàng, kẻ đã mệt mỏi và mất đi Phật quang, dùng pháp thân giáng thế nhân gian tìm lại ánh sáng đã mất trong lòng người.
Nàng đã đi qua nhiều nơi, gặp gỡ rất nhiều người, trải qua tám nạn trong ngọn lửa dục vọng, nhưng vẫn chưa tìm thấy ánh sáng đã mất.
Trong lòng nàng vô cùng hoang mang, không biết phải đi đâu tiếp theo.
Lúc đó không xa trên con đường trạm dịch, có hai vị hòa thượng đang gấp gáp đi dưới ánh trăng.
Một vị hòa thượng nói: "A Di Đà Phật! Trong thành Lạc Dương có hàng trăm chùa già lam, tháp Phật tráng lệ, chúng ta có thể đến để trao đổi Phật lý."
Vị hòa thượng kia đáp: "Nữ Đế lên ngôi, trọng Phật tôn tăng, dân chúng cũng phần nhiều tín Phật, chúng ta có thể đến để độ hóa họ."
Cô nương áo xanh lặng lẽ nhìn hai vị hòa thượng gấp gáp đi qua con đường trạm dịch.
Có vẻ nàng đã nảy ra một ý tưởng.
"Lạc Dương, già lam, Nữ Đế, tín đồ... Chi bằng ta đến Lạc Dương xem liệu có thể tìm lại ánh sáng đã mất của mình hay không."
Cô nương áo xanh lơ lửng bước xuống từ cây Bồ đề, nhẹ nhàng đứng dưới ánh trăng.
Nàng cúi đầu nhìn lại mình, nghiêng đầu suy nghĩ một chút, tự nhủ: "Pháp thân này không tốt, đổi một cái khác thôi."
Một làn khói mỏng manh bay lên, cô nương áo xanh biến mất, thay vào đó là một ông lão nhỏ bé mặc áo xanh, cười mỉm đứng dưới ánh trăng.
Ông lão áo xanh vuốt râu, bước nhanh theo hai vị hòa thượng.
"Hai vị thánh tăng xin dừng bước! Lão hủ cũng định đến Lạc Dương, sao không kết bạn đồng hành nhỉ?"
Hai vị hòa thượng dừng bước, chờ đợi ông lão áo xanh, ba người cùng đi dưới ánh trăng, đi về phía Lạc Dương.
*
Giữa xuân, Lạc Dương.
Sắc xuân tươi đẹp, vạn vật hồi sinh.
Hai bên bờ sông Lạc cỏ mọc xanh tươi, chim hoàng oanh hót líu lo, hoa đào hồng thắm nở rộ trên cành như những đám mây hồng tươi đẹp rực rỡ.
Dưới cầu nổi, giữa dòng sông Lạc, những cặp chim rẻ quạt và uyên ương đập cánh chơi đùa trên mặt nước. Bên bờ, những đám bèo xanh li ti dập dờn, xen lẫn giữa chúng là những đóa hoa trắng nhỏ xinh.
Nguyên Diệu mặt mày ủ rũ vội vã đi qua cầu nổi, chẳng còn tâm trạng thưởng thức vẻ đẹp tươi sáng của mùa xuân.
Từ đầu xuân đến nay, việc kinh doanh của Phiêu Miểu các đột nhiên trở nên khởi sắc, mỗi ngày đều có vài giao dịch thành công. Một số khách hàng cũ còn gửi thư đặt hàng trước, Nguyên Diệu phải ra ngoài vài lần mỗi ngày, chạy khắp các khu vực trong thành để giao hàng cho khách. Ngoài việc giao hàng, Nguyên Diệu còn phải ghi chép sổ sách, quét dọn, giặt giũ, sắp xếp hàng hóa, và còn phải mua cá giúp Ly Nô.
Xuân đến rồi, liễu bay tơi tả, mưa xuân lấm bùn, việc quét dọn trong Phiêu Miểu các càng nặng nề hơn mùa đông lạnh lẽo. Ngoài ra, Phiêu Miểu các ở Lạc Dương còn lớn hơn Phiêu Miểu các ở Trường An, đồ đạc trong cửa hàng cũng nhiều hơn, việc dọn dẹp tốn thêm rất nhiều thời gian và công sức.
Mùa xuân đã đến, Bạch Cơ ra ngoài tham gia yến tiệc và đi dạo nhiều hơn. Mùa xuân ở Thần Đô luôn là mùa các thiếu nữ mặc trang phục lộng lẫy, thi nhau khoe sắc. Bạch Cơ đam mê trang phục, chú trọng vào việc tô điểm cho vẻ ngoài của mình, đuổi theo các xu hướng trong cung đình và thời trang dân gian. Nàng mua thêm rất nhiều y phục mới. Càng có nhiều y phục, nàng càng thay đồ thường xuyên, những bộ y phục dơ cứ chất đống lại, để Nguyên Diệu phải giặt giũ. Nguyên Diệu không dám phản kháng, đành chịu đựng giúp nàng giặt đống y phục cao như núi, khổ sở vô cùng.
Mùa xuân đến, Ly Nô càng trở nên lười biếng. Ngoài nấu ăn ra thì nó chỉ muốn nằm phơi nắng và ngủ gật, thậm chí không muốn ra ngoài mua đồ, thường xuyên bắt Nguyên Diệu đi thay.
Nguyên Diệu bận rộn như con quay bị quay không ngừng, cả ngày làm việc không ngơi chân, chẳng có chút thời gian rảnh rỗi.
Nguyên Diệu một mình phục vụ một con rồng mê thay đồ và một con mèo lười biếng trong cơn buồn ngủ mùa xuân, mỗi ngày dậy sớm làm việc đến khuya, nhưng vẫn không làm hết việc.
Thấy mình sắp kiệt sức, Nguyên Diệu thực sự không thể chịu nổi nữa, bèn đề nghị Bạch Cơ mua thêm một người hầu.
Con yêu rồng keo kiệt không muốn tiêu tiền, viện lý do rằng "mùa xuân đến, giá nô lệ đắt đỏ, chờ đến mùa hè khi đám nô lệ từ các nơi đổ về Lạc Dương, giá sẽ hạ xuống, lúc đó hãy mua" để trì hoãn mãi.
Nguyên Diệu vội vã bước qua cầu nổi, nghĩ đến đống việc lớn đang chờ mình ở Phiêu Miểu các, bỗng cảm thấy thân thể mệt mỏi và tâm trí kiệt quệ.
Nguyên Diệu thầm mắng Bạch Cơ keo kiệt, rõ ràng gần đây việc buôn bán phát đạt, lợi nhuận thu vào không ít, vậy mà nàng chẳng chịu mua lấy một người hầu. Nàng thì tiêu tiền không tiếc tay mua đủ loại y phục nữ trang theo mốt, nhưng lại không muốn bỏ chút tiền nhỏ mua một người hầu biết làm việc.
Việc trong ngoài ở Phiêu Miểu các chẳng ai gánh vác, tất cả đè lên vai Nguyên Diệu. Cậu thư sinh nhỏ bé hận không thể mọc thêm bốn đầu tám tay để làm việc, nhưng vẫn không thể làm hết mọi việc.
Nguyên Diệu vừa thầm mắng Bạch Cơ, vừa nhìn thấy bên đường có người nông dân bán măng tươi còn dính bùn vừa mới đào lên.
Nhớ lại buổi sáng hôm nay, Bạch Cơ nói muốn ăn món cơm điêu hồ với măng tươi, Nguyên Diệu vội chạy đi mua một ít măng tươi về.
Khi Nguyên Diệu ôm đống măng tươi trở về Phiêu Miểu các, Ly Nô đang ngồi trên quầy, hé mắt, lười biếng ăn cá khô.
Nguyên Diệu nói: “Ly Nô lão đệ, sáng nay Bạch Cơ nói muốn ăn cơm điêu hồ với măng tươi, tiểu sinh đã mua một ít măng về đây rồi.”
Con mèo đen lười biếng đáp: “Mọt sách, cứ để măng tươi vào bếp đi.”
Nguyên Diệu mang măng tươi vào bếp.
Xong xuôi, Nguyên Diệu đến bên giếng cổ múc nước, rửa sạch bùn đất trên tay. Hắn nhớ ra Bạch Cơ lại vừa vứt thêm một đống y phục vào gian trong, phải lập tức ngâm với xà phòng mới có thể kịp giặt sạch trước bữa tối.
Nguyên Diệu bước vào gian trong, vừa với tay lấy y phục trên bàn ngọc bích thì Bạch Cơ từ lầu hai bước xuống.
Bạch Cơ mặc bộ y phục hẹp tay màu trắng tuyết, cài trâm ngọc vấn tóc, trông như một nam tử quý tộc.
Y phục của Bạch Cơ là kiểu dáng thịnh hành nhất ở Thần Đô, eo thắt và cổ lật, chất liệu vải là loại lụa cao cấp từ Việt Châu, áo ngoài là gấm dệt hoa văn, trên cổ áo và tay áo thêu chỉ bạc hình mây tinh xảo, thắt lưng dùng đai ngọc Cửu Hoàn, còn giày gót được khảm đá quý.
Bạch Cơ vừa bước xuống vừa nhìn tấm thiệp dát vàng trong tay, có vẻ đang suy nghĩ điều gì đó.
Nhìn Bạch Cơ phong thái như ngọc, dung mạo kiêu sa.
Nhưng Nguyên Diệu chẳng có tâm trạng nào để ngắm hay khen ngợi nàng, hắn chỉ cảm thấy lo lắng.
Vì bộ y phục này vừa nhìn là biết rất khó giặt, lụa Việt Châu và gấm dệt hoa văn đều là loại vải quý, không thể dùng xà phòng, không thể dùng nước nóng, cũng không thể dùng chày đập, chỉ có thể nhẹ nhàng giặt tay với nước lạnh. Ngày hôm qua, bộ áo choàng lụa chín tầng và váy dệt hoa từ đất Thục đã khiến Nguyên Diệu mất rất nhiều công sức để giặt.
Bạch Cơ ngẩng đầu, thấy Nguyên Diệu thì cười nói: “Hiên Chi đã về rồi à.”
Nguyên Diệu đáp: “Đã về rồi. Bạch Cơ sắp ra ngoài à?”
Bạch Cơ khẽ lắc tấm thiệp vàng trong tay, cười nói: “Đúng vậy. Ta vừa nhận được một vụ trừ yêu diệt ma, bây giờ phải đến chùa Thập Tự một chuyến.”
Nguyên Diệu bỗng ngẩn ra.
Chùa Thập Tự là chùa của Cảnh giáo*, còn gọi là Đại Tần Tự. Ở Trường An có một ngôi chùa nằm ở phường Nghĩa Ninh, còn ở Lạc Dương thì nằm ở phường Tu Thiện.
* Cảnh giáo: Cảnh giáo là giáo phái Kitô giáo Nestorius du nhập vào Trung Quốc thời Đường, tức là Giáo hội Assyria Đông phương. Cảnh giáo có nguồn gốc từ Syria ngày nay, tách ra từ Chính thống giáo Hy Lạp (Chính thống giáo Đông phương). Giáo phái này do giáo sĩ Syria Nestorius, Thượng phụ Constantinople, sáng lập vào khoảng năm 428-431 và đã thiết lập giáo hội tại Ba Tư. Cảnh giáo được xem là giáo phái Kitô giáo sớm nhất vào Trung Quốc.
Dù là ở Trường An hay Lạc Dương, đôi khi Nguyên Diệu cũng đi ngang qua chùa Thập Tự, nhưng đối với tôn giáo ngoại lai như Cảnh giáo, hắn cảm thấy rất xa lạ và không muốn tìm hiểu, chỉ luôn giữ một thái độ kính trọng khi đi ngang qua mà chưa bao giờ bước vào hay có ý định tìm hiểu.
Kiến thức của Nguyên Diệu về Cảnh giáo và chùa Thập Tự hầu như bằng không, hắn chỉ nhớ phía ngoài chùa Thập Tự có một cây thập giá khổng lồ. Các hòa thượng trong chùa phần lớn là người Hồ mũi cao mắt sâu, tín đồ gọi họ là chủ giáo và truyền giáo sĩ. Họ mặc áo đen, trước ngực đeo thập giá, tay cầm cây gậy thập tự giống như gậy thiền.
Một lần, Nguyên Diệu đi ngang qua chùa Thập Tự, thoáng thấy các giáo sĩ đang di chuyển một tượng thần hình thập giá ra ngoài. Cậu dừng bước với lòng kính sợ, nhìn kỹ một chút thì vô cùng ngạc nhiên và sợ hãi.
Bởi vì trên cây thập giá đó trói chặt một nam nhân gầy trơ xương, trông người đó rất đói khát, gầy đến nỗi lộ cả xương sườn, trên người còn quấn đầy gai nhọn, ngực và bụng bị thương, dường như đã chết.
Nguyên Diệu nhìn thấy các tín đồ Cảnh giáo quỳ bái nam nhân bị trói bằng gai nhọn trên thập giá đó, chỉ nghe được vài lời lướt qua tai, có vẻ như người đó là thần của Cảnh giáo.
Phật tổ và Bồ Tát của Phật giáo có tướng mạo trang nghiêm, Tam Thanh của Đạo giáo có dáng vẻ thần tiên cốt cách, thánh hiền của Nho giáo thì phong độ nhã nhặn, quân tử như lan. Nguyên Diệu chưa từng thấy thần thánh nào có dáng vẻ giống như vậy, chợt thấy rất sốc, khó có thể chấp nhận.
Khi trở về Phiêu Miểu các, Nguyên Diệu hỏi Bạch Cơ về giáo lý của Cảnh giáo mới biết rằng vị thần của Cảnh giáo có dáng vẻ như vậy là bởi vì ngài thương yêu tất cả chúng sinh trong thế gian, nên đã chịu khổ thay cho loài người, gánh vác mọi tội lỗi của thế giới. Ngài là vị thần đội vương miện gai.
Nguyên Diệu cảm thấy kính trọng đối với thần của Cảnh giáo nhưng vì không hiểu rõ nên giữ khoảng cách.
Nguyên Diệu thắc mắc hỏi: "Bạch Cơ, tại sao ngươi phải đi chùa Thập Tự để diệt yêu trừ ma?"
Bạch Cơ mỉm cười đáp: "Là do Tô Lượng nhờ vả ta. Chỉ cần có bạc kiếm, không chỉ chùa Thập Tự, mà dù là địa ngục ta cũng đi."
Tô Lượng là hoàng tử Ba Tư đang lưu vong tại Đại Đường. Trong sự kiện "Mèo Ngọc Diện", hắn quen biết với Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô, thậm chí còn ở lại trong Phiêu Miểu các một thời gian. Tiểu Tô là bạn thời thơ ấu của Ly Nô, là bạn thân của Tô Lượng, luôn ở bên cạnh hắn.
Cảnh giáo là một nhánh của Ki-tô giáo Nestorian, ban đầu tách ra từ La Mã ở Constantinople. Giáo chúng chạy trốn đến Ba Tư và được vua Ba Tư bảo hộ, lập nên giáo phái.
Cảnh giáo và triều đại Ba Tư có mối quan hệ sâu sắc. Tô Lượng, là hậu duệ hoàng tộc Ba Tư lưu vong, có qua lại với Cảnh giáo ở Đại Đường cũng là chuyện bình thường.
Nguyên Diệu hỏi: "Ở chùa Thập Tự đã xảy ra chuyện ma quái sao?"
Bạch Cơ gật đầu: "Đúng vậy, có xảy ra vài chuyện kỳ lạ."
Nguyên Diệu tiếp tục: "Chuyện kỳ lạ gì vậy?"
Bạch Cơ chỉ vào một cuốn sách trên bàn ngọc xanh, hỏi lại: "Ngươi không đọc những cuốn sách phố phường gần đây sao?"
Nguyên Diệu nhăn nhó: "Bạch Cơ, dạo gần đây ta bận rộn từ sáng đến tối, đến cả một ngụm nước còn không có thời gian uống, nói gì đến việc đọc sách phố phường? Ngay cả sách thánh hiền ta cũng phải xao nhãng."
Bạch Cơ cười nói: "Vậy để ta kể cho ngươi nghe. Là thế này, có vài dân chúng sau khi đến chùa Thập Tự thì mất tích không rõ lý do. Dân gian đồn rằng do các giáo sĩ giết người, nhưng những người mất tích này sống không thấy mặt, chết không thấy xác. Bất lương nhân đã điều tra kỹ trong chùa Thập Tự nhưng không tìm thấy xác chết. Sau khi thẩm tra giáo sĩ, cũng không phát hiện dấu hiệu giết người. Sự việc cứ lơ lửng như vậy. Mọi người bắt đầu bàn tán, nói rằng Cảnh giáo là tà giáo ăn thịt người. Giáo chúng của Cảnh giáo vốn đã ít, không thể chịu nổi tin đồn này. Họ cho rằng do yêu quái từ Trung Thổ gây ra, khiến cho ánh sáng thần thánh bị lu mờ nên đã nhờ Tô Lượng tìm người diệt yêu trừ ma. Tô Lượng đã đề xuất ta. Ta thấy tiền thưởng khá hậu hĩnh nên nhận lời."
Nguyên Diệu gãi đầu hỏi: "Bạch Cơ, Cảnh giáo có thần của riêng họ. Thông thường, thần đều có pháp lực vô biên, sao lại không thể đàn áp yêu ma mà còn phải bỏ bạc thuê ngươi đi diệt trừ?"
Bạch Cơ cười bí ẩn: "Đông Đô và Tây Kinh là những nơi cấm thần linh lai vãng, nhưng lại là nơi yêu ma quỷ quái hoành hành. Nơi mà thần không thể bước đến thì những chuyện kỳ quái dĩ nhiên là ta phải xử lý thôi."
Nguyên Diệu nghe vậy, khóe miệng giật giật.
Bạch Cơ nghiêng đầu hỏi: "Ngươi không muốn đi cùng ta sao?"
Nguyên Diệu than thở: "Ta cũng muốn đi cùng ngươi, nhưng không thể. Vào đầu xuân, Phiêu Miểu các bận rộn hơn hẳn, có quá nhiều việc lặt vặt. Ta còn phải ghi sổ, lau dọn, giặt giũ quần áo, tưới cây bồ đề và những loài hoa cỏ trong hậu viện, còn phải chạy việc mua cá cho Ly Nô... Hôm nay còn bao nhiêu việc chưa làm xong, không có thời gian để đi cùng ngươi."
Bạch Cơ suy nghĩ một chút rồi nói: "Ừ, mấy việc lặt vặt đó đúng là cần ngươi làm. Nhưng việc tưới cây bồ đề và hoa cỏ không cần ngươi lo nữa, ao sen bảy báu sẽ lo việc này. Sau khi nó có linh thức, thấm nhuần tín ngưỡng Phật môn ban phát mưa móc nuôi dưỡng chúng sinh, nó đã nhận trách nhiệm cung cấp nước cho cây cối và hoa cỏ trong hậu viện. Thậm chí toàn bộ cây cỏ trong chợ Nam cũng được nó chăm sóc. Không giống như ở Trường An, tại Phiêu Miểu các ở Lạc Dương này, chỉ cần trong ao sen bảy báu còn nước, dù không tưới thì hoa cỏ trong hậu viện cũng không khô héo. Còn phía bên Trường An ngươi cũng không cần lo, có A Phỉ và Thẩm Lâu ở cạnh giếng cổ sẽ thay phiên nhau lo tưới nước."
Nguyên Diệu ngạc nhiên. Hắn vội nhìn qua cửa sổ, ngắm nhìn ao sen bảy báu trong hậu viện. Hôm nay, tâm trạng của hồ sen khá tốt, hoa sen đủ bảy màu tươi tắn nở rộ trong gió.
Dường như nghe thấy lời của Bạch Cơ, những đóa sen bảy màu cùng nhau xoay cánh hoa về phía Nguyên Diệu và khẽ cúi đầu, như muốn nói với thư sinh rằng việc tưới cây sau này đã có nó đảm nhiệm.
Nguyên Diệu lập tức cúi đầu cảm tạ ao sen bảy báu.
Nguyên Diệu nói: "Bạch Cơ xem, bây giờ đã gần đến mùa hè, nô lệ cũng bán rẻ rồi, ngươi có thể mua một người không? Trong Phiêu Miểu các nhiều việc quá, một mình ta không thể làm hết, cần thêm người giúp. Không cần phải mua nô lệ đắt tiền như nô lệ Côn Lôn hay tì nữ Tân La, chỉ cần mua một người biết giặt giũ là được."
Bạch Cơ nghĩ ngợi rồi nói: "Ừ, đúng là có nhiều việc ở Phiêu Miểu các khiến ngươi bận rộn, không có thời gian đi cùng ta, mất đi sự thú vị. Vậy thì mua một người giúp việc đi."
Nghe vậy mắt Nguyên Diệu sáng rực, lo sợ Bạch Cơ đổi ý hoặc chần chừ không mua, hắn vội nói: "Bạch Cơ, việc này không thể chậm trễ, nên đi mua ngay."
Bạch Cơ nói: "Ta còn phải đến chùa Thập Tự, không có thời gian rảnh. Nếu ngươi cần người gấp thì cùng Ly Nô ra chợ nô lệ mua một người về."
Nguyên Diệu nói: "Ta và Ly Nô đi chọn người sao? Mắt ta không tinh tường, mà Ly Nô cũng không có vẻ là người biết mua người. Nếu ta và Ly Nô chọn người không vừa ý ngươi, ngươi không hài lòng thì sao?"
Bạch Cơ thản nhiên đáp: "Không sao, không hợp ý ta thì bán đi, chẳng có gì to tát."
Nguyên Diệu hỏi: "Mua nô lệ nam hay nữ?"
Bạch Cơ nói: "Gì cũng được. Nhưng không được quá một lượng bạc."
Nguyên Diệu suy nghĩ, với giá hiện tại ở chợ nô lệ, dù không thể mua được nô lệ Côn Lôn hay tì nữ Tân La, nhưng mua một nô lệ bình thường thì vẫn có thể.
Nguyên Diệu đồng ý.
Bạch Cơ vội vàng rời đi.
Nguyên Diệu đem đống quần áo bẩn mà Bạch Cơ thay ra đến giếng cổ ở hậu viện, ngâm vào chậu giặt, sau đó lau sạch tay, đi đến sảnh lớn tìm Ly Nô.
“Ly Nô lão đệ, hãy cùng tiểu sinh đi mua người hầu đi.”
Con mèo đen đang cuộn tròn ngủ trên quầy, nghe vậy lập tức hé mắt nhìn rồi nói: “Mọt sách, gia không muốn động đậy đâu, chợ người cũng không xa lắm, ngươi tự đi mua đi.”
Nguyên Diệu biết Ly Nô đang mắc bệnh lười biếng mùa xuân, không muốn di chuyển, nên cũng không thể gọi nó dậy.
“Tiểu sinh tự đi cũng được. Vậy Ly Nô lão đệ, ngươi có yêu cầu gì đối với người hầu không? Là nam hay nữ? Mua người khỏe mạnh hay thân hình nhỏ bé?”
Con mèo đen nghĩ một lúc rồi nói: “Nam hay nữ cũng không sao cả. Mọt sách, gia chỉ có một yêu cầu, mua người thân hình nhỏ bé thôi.”
Nguyên Diệu không hiểu, hỏi: “Tại sao?”
Con mèo đen nói: “Người khỏe mạnh chắc chắn ăn nhiều lắm. Người nhỏ thì ăn ít hơn. Gia mỗi ngày nấu ăn đã rất vất vả rồi, không muốn tăng thêm công việc nữa. Hơn nữa, trong Phiêu Miểu các đã có một thùng cơm như ngươi là đủ rồi, đâu thể chịu nổi thêm một thùng cơm nữa?”
Nguyên Diệu giận dỗi, nói: “Ly Nô lão đệ, tiểu sinh không phải là thùng cơm!”
Nói xong, Nguyên Diệu lấy một lạng bạc từ trong hũ gốm trên quầy, rồi đi ra chợ người.
Tác giả Quán nào đó: Cảm ơn tất cả các bạn. Trong thời hiện đại, buôn bán con người là sai và phạm pháp. Nhưng trong bối cảnh thời Đường (triều đại phong kiến), việc buôn bán nô lệ là hợp pháp và hợp lý, triều đình còn thiết lập các chợ nhân sự để cung cấp nô lệ cho mọi người mua bán. Tác phẩm văn học chắc chắn phải mang theo bối cảnh lịch sử và kiến thức thông thường. Nếu bối cảnh thời Đường mà không có nô lệ và người hầu, mọi người đều là người tự do bình đẳng thì lại không hợp lý, không tôn trọng lịch sử. Quán viết về việc mua nô lệ thời Đường và việc Phiêu Miểu các mua người hầu, không có nghĩa là ủng hộ việc buôn bán con người nhé...