Lý Thích vội đỡ người dậy: “Trần đại nhân đừng câu nệ lễ tiết.”
Người dân xung quanh thấy ông lão như thấy người đáng tin, đều lại gần gọi mấy tiếng “đại nhân”, chỉ có mình Tô Sầm chưa kịp hoàn hồn đứng như trời trồng, ngẩn ngơ nhìn người trước mắt.
Ai cũng biết đây là Trần đại nhân, chỉ có mình cậu không hay biết gì, lúc đầu còn không biết trời cao đất dày đến múa rìu qua mắt thợ, giờ cậu thật sự muốn chôn mình luôn rồi.
Tô Sầm khó tin xác nhận lại: “Ngài thực là… Trần đại nhân?”
Ông lão cười: “Sao? Thất vọng à”
“Sao ngài lại ở đây? Tại sao… tại sao lại thế này? Lục Gia Trang này, Lục Tiểu Lục, “Trần thị Hình luật” là như vậy sao…” Tô Sầm nói năng lộn xộn, miệng hỏi mà trong lòng cũng dần hiểu rõ.
Không phải nên vậy sao, nên là vậy mà.
Trần Quang Lộc, Trần đại nhân phá vô số vụ án trong đời, sinh ra trong án, trưởng thành trong án, cuối cùng hòa mình vào vụ án.
“Được rồi, có gì lát rồi nói sau.” Trần Quang Lộc vỗ vai Tô Sầm: “Việc cấp bách bây giờ là nhanh chóng rời khỏi đây.”
…
Nếu nói thôn này là một bàn cờ khổng lồ, có thể dẫn người đi từ tay Lục Tốn cũng chỉ có m ình Trần Quang Lộc.
Trần Quang Lộc cầm điếu thuốc đi đằng trước, quanh co mấy hồi trong thôn, mấy quan tài trên đường đi đều yên ắng, không còn ai nhảy ra nữa.
Thôn dân đi phía sau Trần Quang Lộc, rõ ràng chỉ là một ông lão lưng hơi còng thôi lại khiến người ta yên tâm hơn cả Đồ Đóa tam vệ thiện chiến.
Đoàn người ra khỏi thôn làng quái dị kia, một con đường nhỏ như ruột dê nối liền với căn nhà tranh cách đó không xa, lưng tựa núi, gà vịt trước cửa thành đàn, không hiểu sao ai cũng thấy thân thuộc.
“Khi tới đây thần đã xem qua rồi, đường ra thôn đã bị bít kín.” Trần Quang Lộc đi phía trước cùng Lý Thích, tay chắp sau lưng, vừa đi vừa nói: “Mấy người chúng ta bất chấp lao ra không hiện thực, phải dựa vào cứu binh cậu chàng kia gọi đến.”
Lý Thích xoay nhẫn ban chỉ: “Cấm quân đi từ Từ Châu đến, nhanh nhất cũng phải mai, đêm nay là một trận quyết liệt, chắc chắn đối phương sẽ giữ chúng ta lại bằng mọi giá.”
Trần Quang Lộc nói: “Căn nhà đơn sơ của thần không có ưu điểm gì khác, chỉ có dưới đất này toàn là đá, không có đường ngầm, nếu chúng muốn lại gần thì chỉ có một đường để đi.”
Căn nhà của Trần Quang Lộc ở dưới chân núi, có thể nhìn thấy tình hình cả thôn, hơn nữa hai bên đường lên núi là đá mọc lởm chởm, không thể đi lại, hình thành nên một lá chắn tự nhiên. Chỉ cần Đồ Đóa tam vệ thủ vững con đường này thì chẳng khác nào một người làm cả họ được nhờ, người của Ám Môn đừng hòng lên núi.
Hai người nhìn nhau, Lý Thích mỉm cười ẩn ý: “Ngươi đã chuẩn bị cho ngày này lâu lắm rồi nhỉ?”
Trần Quang Lộc chắp tay: “Kế tiếp phải nhờ Vương gia rồi.”
…
Vào nhà bố trí cho người dân xong thì trời cũng nhá nhem tối, Trần Quang Lộc dọn buồng chính của mình cho Lý Thích làm nơi bàn chuyện, bày binh bố trận. Lý Thích cố gắng tận dụng hết sức từng người trong Đồ Đóa tam vệ, hai mươi mấy người có thể địch cả đội quân trăm người.
Vốn dĩ còn cần một người phụ trách qua lại báo cáo tình hình cuộc chiến, nhưng việc này đồng nghĩa rằng họ phải mất thêm một chiến binh. Không ngờ mấy người dân của Lục Gia Trang chủ động xung phong, việc lên trước chém giết có lẽ họ không làm được, nhưng mấy chuyện nhỏ, việc vặt này thì quyết không nao núng. Chắc hẳn họ cũng biết nếu không phải lo cho họ, những người võ nghệ cao cường này chưa chắc đã không đánh ra được, mấy người này bảo vệ họ như Trần đại nhân, tất nhiên họ không thể kéo chân.
Huống chi họ nhẫn nhịn đã lâu, nơm nớp sợ hãi sống không thấy mặt trời, sống không thành danh, chết không thể dựng bia, người đeo gông xiềng nặng trịch, mãi đến nay mới có thể phá tan xiềng xích, tất nhiên họ sẽ dốc hết sức.
Màn đêm vừa buông, tiếng đao kiếm va chạm đầu tiên vang lên bên ngoài, sau đó thành như ném đá xuống biển dấy lên gợn sóng, tiếng gào giết vang dội, đao kiếm như mưa, người ở trong lòng cũng có thể ngửi được mùi máu tanh nồng.
Mà lúc này ngoài Lý Thích quan sát tình hình bên ngoài, thỉnh thoảng trao đổi mấy câu với thôn dân đến báo tin thì hai người còn lại ngồi bên tràn đèn tàn, đã im lặng nhìn nhau nửa canh giờ rồi.
Cuối cùng Trần Quang Lộc bại trận trước, cười nói với Tô Sầm: “Được rồi anh bạn, muốn hỏi gì thì hỏi đi.”
Mắt Tô Sầm sáng rực, lập tức kích động chà tay: “Tôi từng sắp xếp lại toàn bộ vụ án năm xưa ngài từng xử lý, cũng vinh dự được đọc “Trần thị Hình luật” được ngài biên soạn từ những vụ án đã phá, nên vô cùng kính trọng ngài. Trước đây tôi còn hỏi thăm tin tức về ngài rồi, nhưng Trương Quân Trương đại nhân không chịu nói, không ngờ lại có thể gặp ngài ở đây, thực lòng kích động khó kiềm chế, mong ngài đừng trách.”
Lý Thích nghe vậy nhíu mày, hắn chưa thấy nhóc con này kích động như vậy bao giờ, chẳng lẽ hắn còn không bằng lão già bết bát này?
Trần Quang Lộc tươi cười gật đầu: “Trách thì không trách, người trẻ như anh rất thú vị, nhiều năm rồi ta chưa gặp được ai giống thế.”
Tô Sầm nhớ lại trước đây mình từng nghi kỵ thăm dò ông lão, ngại ngùng cười: “Để tiền bối chê cười rồi.”
Sau đó nghiêm túc hỏi: “Ngài còn nhớ Điền Bình Chi năm xưa không?”
Trần Quang Lộc híp mắt, không khỏi nghĩ: “Tiểu tử này thực rất tài giỏi, nói phát vào ngay vấn đề mấu chốt, nguyên nhân của hàng loạt chuyện này chẳng phải từ sĩ tử tên Điền Bình Chi kia sao?”
“Mùa xuân năm Vĩnh Long hai mươi hai có kỳ khoa cử ba năm một lần, sĩ tử khắp nơi đổ về kinh thành. Kỳ thi chưa bắt đầu mà tất cả đã bắt đầu âm thầm đọ sức.” Trần Quang Lộc nhớ lại kinh thành sôi nổi năm ấy, muôn người tề tụ, quán trà quán rượu đâu đâu cũng có thể thấy những người mặc đồ trắng sĩ tử, đấu thơ so đối, nghe lâu rồi đến đứa nhỏ bán rong ngoài đường cũng ngâm được đôi câu.
“Lúc đó có hai người là nổi bật nhất. Một theo trường phái tả thực, mở miệng là nhắc đến dân sinh khốn khổ, sinh linh xã tắc, là nhân tài rường cột. Mai sau người này cũng không phụ lòng mong mỏi, làm tới chức Thừa tướng, cũng chính là Liễu tướng, Liễu Trình bây giờ.” Trần Quang Lộc dừng lại, rồi nói tiếp: “Còn một người nữa bản tính lãng mạn, phóng khoáng không theo nếp, thơ từ làm ra cũng toàn là kiệt tác ngâm vịnh non nước sông núi, thư thả phóng khoáng, trác tuyệt cao thượng. Mà người này chính là Điền Bình Chi. Khi đó các sĩ tử truyền nhau rằng ba người nhất giáp thì hai người này chiếm chắc vị trí Trạng nguyên, Bảng nhãn rồi, những người còn lại cố gắng xem ai giành được Thám hoa thôi.”
Tô Sầm: “Hai người này đố kỵ tài đức, không hợp nhau?”
Trần Quang Lộc lắc đầu: “Trái ngược hoàn toàn, Liễu Trình và Điền Bình Chi là Du Lượng chi giao[1] hiếm có, họ tán thưởng nhau, thường xuyên cùng ăn cùng ngủ, thức thâu đêm cùng luận bàn văn chương, khi đó còn có người gọi họ là ‘Loan phượng tề minh’.”
[1] Chu Du và Gia Cát Lượng.
“‘Muôn tiếng cùng vang động bội loan, Cửu Châu thông lối thẳng lên ngàn’.” Tô Sầm không khỏi nhớ lại hai câu thơ mình nghe được trong túp lều tranh khi đấu thơ với người khác ở Biện Châu trên đường xuống Dương Châu. Liễu Trịnh tự Trọng Bội, mà chữ “trời” nối thẳng một chữ “Điền”, đọc câu thơ này lên như tả cảnh sông nước Hoàng Hà dậy sóng đổ vào sông Biện, nhưng thực chất lại ngầm chỉ hai người. Một chữ “Loan” như đã chứng minh cách gọi ấy, nếu thực là Điền Bình Chi viết câu thơ này, e là hai người không đơn giản chỉ là Du Lượng chi giao.
Nhưng Liễu Trình lại nói không biết Điền Bình Chi…
“Không ai ngờ rằng một người tài hoa tương lai rực rỡ lại chết trong trường thi như thế.” Trần Quang Lộc thở dài: “Sau này cha Điền Bình Chi đến tìm ta, muốn ta điều tra giúp nguyên nhân chết thật sự của Điền Bình Chi, ta nhận vụ án này vào tháng ba, đã hơn một tháng kể từ khi vụ án xảy ra rồi. Nhưng may sau khi đó tiết trời còn lạnh, người lại được chôn dưới đất, khi đào lên vẫn còn khá nguyên vẹn. Ngỗ tác của vụ án lúc đó là người được điều từ nha huyện Vạn Niên đến, họ Vũ, cũng có tài thực. Sau nhiều lần kiểm chứng, điều tra, chúng ta phát hiện Điền Bình Chi vốn bị hen suyễn, cặn thức ăn trong dạ dày hắn có bột hạt phỉ.”
“Hạ độc?!” Tô Sầm kinh ngạc, nhíu mày suy nghĩ: “Ba ngày thi Hội phải tự mang thức ăn vào, cũng tức là Điền Binh Chi đã bị người ta để mắt từ trước khi vào Cống viện. Có thể ra tay với thức ăn của Điền Bình Chi chắc chắn là người bên cạnh hắn, Điền bá vào kinh cùng con, thức ăn Điền Bình Chi mang theo hẳn là do ông cụ chuẩn bị. Nhưng ông cụ không thể không biết Điền Bình Chi hen suyễn từ nhỏ, càng không có chuyện hại con. Ngoài Điền bá ra, người bên cạnh Điền Bình Chi… cũng chỉ có Liễu Trình.”
Trần Quang Lộc gật đầu tán thưởng: “Khi đó chúng ta cũng nghĩ vậy. Nhưng vừa điều tra đến Liễu Trình thì hắn được khâm điểm làm Trạng Nguyên, sau đó Hoàng đế Thái Tông băng hà, Tiên đế kế vị, Liễu Trình là môn đệ của vua, rất được Tiên đế trọng dụng, ban chức ở Trung thư tỉnh cho làm Trung thư xá nhân. Thoắt cái, hắn nổi trội vô cùng, không dễ điều tra vậy nữa.”
Tô Sầm cau mày suy nghĩ, nói: “Nhưng tôi vẫn không hiểu, nếu chỉ vì tranh chức Trạng nguyên, Liễu Trình và Điền Bình Chi ngang tài ngang sức, hai người một Trạng nguyên một Bảng nhãn dễ như trở bàn tay, hai người lại là bạn thân thiết, sao Liễu Trình lại giết người vì chuyện này?”
“Trẻ nhỏ dễ dạy.” Trần Quang Lộc mỉm cười: “Khi đó chúng ta cũng nghi ngờ điều này, chuyện khác thường ắt có trá, bóc tách điều tra mấy hồi lại phát hiện có người đứng sau Liễu Trình.”
Tô Sầm: “Là Ám Môn?”
Trần Quang Lộc gật đầu: “Liễu Trình có Tiên đế chống lưng cho chúng ta chưa thể động vào ngay được, chỉ có thể chuyển sự chú ý sang Ám Môn trước. Sau này chúng ta tìm đến Lục Gia Trang, nói là đuổi theo Lục Tiểu Lục, thực chất lại là theo Ám Môn.”
“Ta và học trò của ta Trương Quân lấy có điều tra cái chết của Lục Tiểu Lục đến Lục Gia Trang, mà ngày hôm sau khi chúng ta đến đó đã có một thợ săn đến tự thú, nói là hắn giết người, lý do là Lục Tiểu Lục say rượu trêu đùa con gái mình. Nhưng biểu cảm của thợ săn kia rất câu nệ, nhìn là biết có người đe dọa, chúng ta đi tìm thi thể Lục Tiểu Lục lại phát hiện thi thể đã mất.”
Trần Quang Lộc nhíu mày: “Kế đó, thôn này bỗng trở nên rất đáng sợ, liên tiếp có người kéo bè kéo phái vào, nhưng người dân trong thôn lại không bước ra ngoài. Người chết trong thôn nối tiếp nhau, thường xuyên có chuyện cả gia đình biến mất sau một đêm, nhưng từ đầu chí cuối không hề thấy thi thể. Đến khi ta phát hiện thôn này bị Ám Môn khống chế, muốn ra ngoài xin cứu binh thì đã muộn rồi.”
“Thôn trưởng Lục Gia Trang năm đó là Lục Tốn, rất có tiếng nói trong thôn, là ông ấy tập kết người dân liều chết đưa ta ra ngoài.”
“Lục Tốn?” Tô Sầm nhíu mày: “Nhưng Môn chủ của Ám Môn kia nói hắn là Lục Tốn?”
“Đó mà Lục Tốn cái gì? Có xứng không? Tự dưng làm bẩn cái tên này!” Trần Quang Lộc tức giận, không cam lòng vuốt ngực: “Lúc ấy ta đã hứa với Lục Tốn nhất định sẽ quay lại. Sau khi về kinh, ta lập tức bẩm lên triều đình, xin Tiên đế xuất binh tiêu diệt đám nghịch đảng này, thế nhưng… nhưng…” Khớp ngón tay gồ lên của ông lão khẽ run, ánh mắt đan xen giữa bất lực và phẫn nộ: “Thế nhưng Tiên đế lại nói mới nhận được tấu chương của huyện Xuyên Lăng một ngày trước, khắp huyện Xuyên Lăng sóng yên biển lặng, còn nói ta đã già, hoa mắt rồi!”
Tô Sầm nhìn ông lão nay đã hoa râm bạc đầu, khuôn mặt bể dâu, không hiểu sao trái tim thắt lại. Cậu cũng từng bôn ba khắp nơi vì một mạng người, họ đều là những người coi trọng mạng người hơn hết thảy, vậy nên cậu mới hiểu được sự bất lực, sợ hãi và tuyệt vọng khi chẳng thể làm gì.
“Sau này ta thăng chức Đại Lý Tự Khanh, Tiên đế lệnh ta biên soạn lại điều lệ luật pháp từ thời Võ Đức đến giờ, quyết giữ chân ta lại kinh thành. Ta quên ăn quên ngủ suốt hai năm biên soạn cho xong “Luật Đại Chu”, từ chức về hưu ngay khi trình “Luật Đại Chu” lên thánh thượng, rồi rời kinh đến đây.”
Chuyện sau nữa Tô Sầm cũng biết, sau hai năm Ám Môn đã hoàn toàn kiểm soát chỗ này, tàn sát hơn một nửa thôn dân, Trần đại nhân dốc hết sức mình bảo vệ những người còn lại, thực hiện lời hứa năm nào.