Thanh âm bán đứng nội tâm người.
Màn đêm buông xuống.
“Nào, ta kính các vị một chén!” Tạ An tự tổ chức một bữa tiệc tự chúc mừng mình, gọi cả gia quyến tới, phu nhân đến còn tự tay rót rượu cho một đám tiểu bối.
“Kính Tạ đại nhân một chén!” Phùng Thiên Quân nâng chén.
Tiêu Sơn và Hạng Thuật thấy thú vị, nhưng Trần Tinh lại vô cảm, nói: “Tạ sư huynh, huynh thực sự chưa từ bỏ ý định sao.”
Trần Tinh vốn cho rằng Tạ An chỉ yêu thích thôi, không ngờ nguyện vọng trở thành Khu ma sư của hắn lại mãnh liệt như vậy, cuối cùng lại xúi hoàng đế ngang ngược nhét người vào Khu ma ti.
“Đây là rượu ngon nhất lão gia cất trong hầm, rượu mạnh, mọi người từ từ uống.” Phu nhân Tạ An là em gái của danh sĩ Lưu Đàm, cũng xuất thân danh môn Giang Nam, cười nói: “Từ khi mọi người tới, ngày nào lão gia cũng lẩm bẩm, làm sao để giúp đỡ Trần đại nhân.”
“Về sau khi giết rồng,” Tạ An nói, “Không thể không đưa ta theo nhé.”
Trần Tinh đỡ trán, Hạng Thuật đáp: “Tự mình giữ cái mạng nhỏ.”
Tạ An nói: “Nhất định rồi, tiểu sư đệ, mấy ngày này ta tu luyện rất nhiều công pháp, chỉ cần Vạn Pháp Phục Sinh, nhất định sẽ phát huy tác dụng… Được rồi, phu nhân, nàng nghỉ ngơi trước đi, chúng ta bàn bạc công việc.”
Lưu thị cười, quay về, Trần Tinh nhìn Tạ An, lại thấy buồn cười, đến tuổi này rồi, còn làm quan lớn cũng không quên sơ tâm thuở niên thiếu. Suy nghĩ lại, hoá ra là mình không nhìn thoáng.
“Được rồi,” Trần Tinh nâng chén, “Hoan nghênh Tạ sư huynh, về sau nhờ sư huynh quan tâm.”
“Thế mới đúng chứ.” Tạ An vỗ bàn nói, lại uống rượu với người khác, trong bữa tiệc không khỏi nhắc đến mấy chuyện Thi Hợi, Thần Châu, Tâm Đăng, Bất Động Như Sơn; lại nói về đại án ba trăm năm trước. Tạ An vất vả mãi mới thành Khu ma sư, bây giờ những truyền thuyết ít người biết đến không phải không liên quan đến mình nữa, mà trở nên gần gũi, tâm tình hắn lại càng sôi sục, dường như mấy tháng tới thôi là Vạn Pháp Phục Sinh, tiền đồ mọi người vô cùng xán lạn.
Đây có thể coi là trùng kiến Khu ma ti không? Trần Tinh nghĩ đến chuyện hai năm sau mình rời đi, những người ở đây, đến lúc ấy Hạng Thuật sẽ không còn ở Khu ma ti, chắc hẳn sẽ muốn về phương bắc làm Đại Thiền Vu, mà Khu ma ti đặt ở phương nam, giao cho Tạ An mới là lựa chọn tốt nhất.
Tạ An cực kỳ tò mò với cái gọi là “huyễn thế”, hỏi rất nhiều chuyện, lại nói: “Như vậy trong Âm Dương giám có tính là huyễn thế không?”
Trần Tinh giải thích: “Nếu nói thật, ‘Huyễn thế’ không phải một thế giới độc lập như mọi người hiểu. Cái gọi là ‘huyễn thế’, tựa như ‘hiện thế’ đối với phàm là những gì của Thần Châu mà họ vẫn thường thấy. Mà Khu ma sư nhìn thấy, phía dưới hiện thế, có thiên địa mạch, có linh khí, có yêu có ma, thì gọi là ‘huyễn thế’. Trong ngoài sơn hà, hiện thế là ngoài, huyễn thế là trong, chính là ý này.”
Tạ An nói: “Cho nên cuối cùng ta cũng thấy được huyễn thế.”
Trần Tinh không biết nên khóc hay cười: “…Có thể nói như vậy. Nhưng Khu ma sư không như mọi người tưởng tượng có thể trường sinh bất lão, sống mãi không chết, phi thiên độn địa không gì không làm được, Khu ma sư cũng có quy tắc của mình, chỉ sợ về sau huynh sẽ thất vọng thôi.”
Tạ An nói: “Ta hiểu, hiểu chứ! Trường sinh bất tử, sư huynh chưa bao giờ nghĩ đến, còn về pháp thuật như thế gia luyện võ, lúc dạy bảo đệ tử, điều đầu tiên là không được dùng võ nghệ động thủ với người không biết võ, đây là luật lệ bất thành văn.”
Trần Tinh thành khẩn nói: “Vậy cũng không hẳn, có người ỷ mình võ công đệ nhất thiên hạ, hay tuyên bố muốn đánh chết ta đó thôi.”
Hạng Thuật: “…”
Tiêu Sơn uống chút rượu, nói nhiều hơn, cậu nhóc bực bội: “Ai muốn đánh huynh?!”
Trần Tinh phất tay ra hiệu chỉ đùa thôi, lại nói với Tạ An: “Bình thường ta không chăm sóc Tiêu Sơn cẩn thận, khiến sư huynh phí tâm rồi.”
“Tiêu Sơn là đứa trẻ ngoan,” Tạ An vui vẻ hớn hở nói: “Đến lúc ra ngoài trừ yêu, nhóc còn có thể để ý ta.”
Hạng Thuật nghe nói như vậy, hơi nhíu mày, Phùng Thiên Quân nghe ra ý tứ không hay, cười nói: “Sao nói như vậy?”
Trần Tinh nhận ra, nhanh chóng thay đổi câu chuyện, Tiêu Sơn lại hỏi: “Trước kia mọi người quen biết sao?”
“Là thế này.” Tạ An được thoả tâm nguyện, không còn gì để giấu diếm, mới nói đến chuyện từng tới Hoa sơn bái phỏng Bách Lý Luân và Trần Tinh khi còn bé, nói, “Lần đầu tiên ta gặp tiểu sư đệ, đệ ấy cũng bằng tuổi nhóc bây giờ.”
Trần Tinh nhớ tới thời gian ở trong núi, dường như đã mấy kiếp, từ bảy tuổi đến mười sáu tuổi chỉ như một cái chớp mắt, mà từ mười sáu đến mười tám, chỉ hai năm thôi mà dường như trải qua sóng gió một đời.
Nói đến Hoa sơn, Tạ An biết đôi chút, Trần Tinh lại có không ít chuyện thú vị, nhưng trong ấn tượng của cậu, những gì thú vị chỉ là đi theo sư phụ học y học sách về Khu ma ti, khâu vết thương xem bệnh cho gấu, nối xương cho chim chóc, hay việc vặt như đi mò cá sau núi, Bách Lý Luân kiệm lời, nên khi còn bé Trần Tinh tự mình tìm niềm vui trong cuộc sống hàng ngày.
Nói là lánh đời trong núi, nhưng với một đứa nhóc thì có vài phần cô đơn, nên Trần Tinh hiểu được Tiêu Sơn, nghĩ đến tuổi thơ Tiêu Sơn chẳng khác mình là mấy. Nhưng nói đi nói lại, Trần Tinh thấy những việc này với bọn họ chắc nhạt nhẽo lắm, chỉ có Hạng Thuật vẫn chăm chú nghe.
Thế là Trần Tinh dừng lại, nói: “Tửu lượng kém nên có hơi nhiều lời, mọi người đừng để bụng.”
Tạ An khoát tay, mọi người tiếp tục uống rượu, Hạng Thuật hỏi Trần Tinh: “Sinh nhật ngươi là ngày nào?”
“A?” Trần Tinh cười nói, “Sao đột nhiên lại hỏi chuyện này? Mười bảy tháng tám.”
Mọi người kinh ngạc, Hạng Thuật không vui nói: “Hôm qua? Sao lại không nói?”
Trần Tinh tự giễu: “Ta cũng không để ý nên quên mất. Huynh thì sao?”
Hạng Thuật im lặng một lát, né tránh ánh mắt hiếu kỳ của Trần Tinh, thuận miệng nói: “Tháng hai.”
“Ấy,” Phùng Thiên Quân nói, “không phải lúc chúng ta mới quen nhau sao?”
Hạng Thuật: “Mùng một tháng hai, còn chưa biết ngươi.”
“Mùng một tháng hai.” Trần Tinh bỗng nhiên nhớ ra, không phải là lúc cậu đến nhà lao Tương Dương tìm thấy Hạng Thuật sao?!
Đề tài này lại được tiếp tục, Trần Tinh mở đầu, Tạ An bèn nói chuyện khi còn nhỏ, nhưng mọi người đã nghe qua từ lâu, có điều thời niên thiếu đọc trong sách, nghe từ truyền thuyết dân gian đã tạo thành ước mơ làm tiên sơn hiệp khách. Nói xong, đến Tiêu Sơn, Trần Tinh lại hỏi: “Sinh nhật đệ là ngày nào, có còn nhớ không?”
Tiêu Sơn cũng không biết sinh nhật của mình, lúc được Thương Lang đưa đến Tạp La Sát thì quá nhỏ, đành chịu. Phùng Thiên Quân lại hỏi: “Khi còn nhỏ ở Tạp La Sát chắc buồn lắm nhỉ.”
Tiêu Sơn nói: “Không tẻ nhạt, Lục Ảnh dẫn ta lên núi chơi, chơi cả ngày.”
Hạng Thuật nhìn vào mắt Trần Tinh, Trần Tinh cười nói: “Vậy đệ sướng hơn ta rồi, thân thể sư phụ không khoẻ, đành ở nhà cả ngày.”
Tiêu Sơn nói một chút việc ở Tạp La Sát, còn nói: “Ở Tạp La Sát cũng có địa mạch, phát sáng trong sơn động, có một cái sơn động.”
Trần Tinh nghĩ nghĩ, nói: “Thi Hợi chắc không trốn đến Tạp La Sát chứ?”
“Cáp Lạp Hoà Lâm cũng có sao?” Đột nhiên Hạng Thuật hỏi, “Ngươi có biết không?”
Tiêu Sơn mờ mịt lắc đầu, không lâu sau, mọi người bỏ qua vấn đề này. Lại đến Phùng Thiên Quân, Phùng Thiên Quân nói một vài chuyện, lúc còn ở cùng với huynh trưởng, cùng bái một lãng nhân làm thầy, tập luyện đao pháp, cuối cùng, mọi người đều nhớ tới Phùng Thiên Dật, thổn thức không thôi.
Tạ An và Phùng Thiên Dật là người quen cũ, không khỏi nói: “Không ngờ Thiên Dật lại rơi vào tình cảnh như vậy.”
“Cho nên,” Phùng Thiên Quân thở dài, nói, “Ta phải báo thù cho đại ca, báo thù xong mới chấm dứt được việc này, mới có thể thành hôn với Thanh nhi.”
“Chuyện thế gian,” Tạ An không nhịn được mà nói, “Đừng nên chờ người, Thiên Quân à, ta thấy huynh đệ hai người lớn lên, chuyên nên làm thì cứ làm đi, hãy nhìn trước mắt, đừng nhìn tương lai.”
Trần Tinh nghe nói vậy, trong lòng rung động, nghĩ đến mình, lại nghĩ đến Hạng Thuật, lúc nhìn y, ánh mắt có vài phần cô đơn.
Hạng Thuật né ánh mắt Trần Tinh, uống rượu, đến lượt mình thì y lại đứng dậy nói: “Ta đi trước.”
Hạng Thuật uống cạn chén rượu, không nói một lời đứng dậy, mọi người thở dài mấy tiếng, Trần Tinh bất đắc dĩ lắc đầu, biết Hạng Thuật không muốn nói nhiều về quá khứ của y, bây giờ đã rời khỏi Sắc Lặc Xuyên, dường như quên lãng mọi chuyện, chỉ có người trong cuộc là Trần Tinh vẫn còn nhớ kỹ.
Tạ An ra hiệu Trần Tinh đi xem xem, Trần Tinh lại ăn một chút rồi mới đứng dậy nói: “Ta cũng đi ngủ đây, mọi người cứ uống tiếp.”
Tiệc rượu sắp tàn, Trần Tinh đón lấy gió mát đêm thu, ánh sao rải đầy đình viện, cậu định về phòng mà lại không tự chủ được đến vườn bên ngoài phòng Hạng Thuật.
“Hộ pháp, huynh ngủ rồi sao?” Trần Tinh nói.
Không nghe thấy tiếng Hạng Thuật đáp lại, Trần Tinh khẽ đẩy cửa sân đi vào, chỉ thấy trong phòng mở cửa, Hạng Thuật mặc một cái quần dài quá gối, thân trên để trần, đứng trước cây đèn trên án, thân hình cơ bắp săn chắc trắng nõn, đường lưng cong đẹp hoàn mỹ. Quả nhiên là mặc quần áo thì gầy, mà cởi ra thì có thịt.
Hạng Thuật: “Ngươi đến nhầm phòng rồi.”
Trần Tinh nói: “Không đi sai, đến thăm huynh một chút.”
Trên bàn bày một tấm bản đồ sơn thuỷ Thần Châu, bên phải là ba bản vẽ mô phỏng lại của Hạng Thuật, trên giấy là một chiếc vòng tay vỏ sò mua ở chợ phiên Thu Xã, Trần Tinh vừa đến, Hạng Thuật đã vươn tay giấu đi, nhưng Trần Tinh thấy rồi chỉ không nói mà thôi.
“Không phải huynh cũng thế sao,” Trần Tinh cười nói, “Còn nói ta? Mặc y phục đi đừng để bị lạnh.”
Uống rượu dở chừng bỏ về xem bản đồ, chắc hẳn vẫn muốn tìm Định Hải châu.
Hạng Thuật nhíu mày, hạ giọng: “Không sao đâu, vừa uống rượu, muốn tản nhiệt rượu đi, ta đang suy nghĩ về địa mạch, với cái gọi là “Vạn Linh Trận” kia. Ngươi xác định nghe thấy rõ chứ?”
Cuộc trò chuyện của Tư Mã Vĩ và Trần Tinh không có người thứ ba, nhưng câu nào Trần Tinh vẫn nhớ, thế nên cậu nói: “Ta chắc chắn không sai.”
“Ngươi qua đây nhìn xem.” Hạng Thuật giương mắt liếc nhìn Trần Tinh, nói.
Trần Tinh đến bên cạnh y, Hạng Thuật cởi trần, làn da vì uống rượu mạnh xong nóng rực, trên cổ cũng ửng đỏ, hơi sáp lại gần đã thấy mùi vị đàn ông mang tính xâm lược, giống như đè Trần Tinh dưới khí thế của y, khiến cậu đỏ mặt tim run, hô hấp nghẹn lại.
“Bắt đầu từ Tạp La Sát,” ngón trỏ thon dài của Hạng Thuật chấm một ít chu sa, vòng một vòng lên một vị trí phía bắc trên bản đồ, “đây là ta nghĩ ra từ lời của Tiêu Sơn.”
“Tiết điểm của địa mạch sao?” Trần Tinh cũng nhận ra, nhưng mỹ nam ở trần bên cạnh khiến cậu bị phân tâm, nhất là gần đây, chẳng biết vì sao lại thấy mị lực của Hạng Thuật ngày càng mạnh, cứ như mất ăn mất ngủ, càng nhìn càng thích, càng ngắm thì tim càng đập rộn lên. Cậu nhịn không được quay đầu nhìn y một cái, đúng lúc Hạng Thuật cũng quay đầu nhìn lại, cảm giác rất gần, thậm chí còn cảm nhận được hơi thở giao thoa. Hơi thở của Hạng Thuật còn có mùi hoa trong hương rượu, thế là tim Trần Tinh lại đập loạn lên.
Hạng Thuật cũng ngại ngùng quay đầu, nhưng không lùi ra xa Trần Tinh, vẫn giữ nguyên động tác, nói: “Đúng. Lại xem Cáp Lạp Hoà Lâm, nếu như có địa mạch… Ta định viết một phong thư để Tạ An gửi cho Thạch Mạt Khôn, nhờ hắn điều tra giúp chúng ta lòng đất Cáp Lạp Hoà Lâm xem.”
“Cho nên?” Trần Tinh thấy ngón tay dính chu sa của Hạng Thuật, điểm hai vị trí.
“Kiến Khang và Hội Kê,” Hạng Thuật đánh dấu thêm một địa điểm, “Giang Nam.”
“Ừm…” Trần Tinh nghiên đầu xem xét cẩn thận, “Ba cái. Huynh đọc không ít cổ tịch rồi, biết rõ địa mạch như vậy.”
“Đây vốn là sở học nhà mẹ ta,” Hạng Thuật lại nói, “Không có gì kỳ quái. Lại nhìn mấy chỗ Bạt từng xuất hiện, sau đó là Sắc Lặc Xuyên.”
Phía bắc ngoài Trường Thành đã có ba điểm.
“Sau đó là Trường An,” Hạng Thuật lại đánh đấu một điểm ở quan nội, “và nối liền Tương Dương, núi Long Trung phía nam.”
“Cũng là nơi đầu tiên chúng ta gặp Bạt.” Ấn tượng của Trần Tinh về nơi này vẫn còn rất rõ.
“Giống cái gì?” Hạng Thuật nói, “Có nhìn ra không?”
Trần Tinh nhìn sáu điểm trên bản đồ, nhớ tới lời Tư Mã Vĩ, bảy Vạn Linh Trận trên vùng đất Thần Châu… còn thiếu một cái, cậu nói: “Huynh cảm thấy những điểm này đều ở trên nơi có địa mạch? Cái thứ bảy đâu?”
Hạng Thuật đánh dấu vị trí cuối cùng ở Lạc Dương, hỏi: “Giờ thì sao?”
Trần Tinh nhìn một hồi, Hạng Thuật nối liền các điểm này từ bắc xuống nam, từ Tạp La Sát, Cáp Lạp Hoà Lâm, núi Âm Sắc Lặc Xuyên một đường, lại đến Lạc Dương, vùng Trung Nguyên có một hình vuông.
Trường An, Tương Dương, Kiến Khang, Lạc Dương cả bốn thành tạo thành hình cái muôi.
Ba điểm phía bắc là cái chuôi.
“Bắc Đẩu thất tinh!” Trần Tinh kinh ngạc.
Hạng Thuật nói: “Thiên Quyền tinh ở ngay Lạc Dương, theo suy đoán của ta, bảy chỗ này đều cần rất nhiều oán khí mới có thể cùng lúc phát động Vạn Linh Trận. Kế hoạch Thi Hợi ở Tương Dương, Tạp La Sát, Cáp Lạp Hoà Lâm và Sắc Lặc Xuyên, đến Trường An vốn đã thành công chỉ vì gặp trở ngại là chúng ta mà bị cướp mất pháp bảo. Mà Ôn Triết và con rồng kia…”
Trần Tinh lẩm bẩm nói: “Là vì thu thập oán khí ở Kiến Khang.”
Hạng Thuật khẽ gật đầu, nói: “Sau đó chính là Lạc Dương, thế nhưng pháp bảo trong tay chúng ta, Thi Hợi thiếu pháp khí, trong thời gian ngắn muốn dùng Thần Châu làm trận pháp tà thuật thì không thể thi triển được.”
Ban đầu Trần Tinh vẫn luôn nghĩ “Vạn Linh Trận” sẽ đặt ở bảy nơi, nhưng mãi vấn chưa tìm được nơi bày trận, nhưng thế này, có lẽ không có trânh pháp, hoặc địa mạch chảy theo hình Bắc Đẩu thất tinh chính là trận pháp rồi.
Cũng là nói, Thi Hợi ban đầu lợi dụng đám Bạt vương, chia đến các địa điểm này, đợi đến khi Phù Kiên xuôi nam, chính là lễ hiến tế lớn nhất, một chiêu phục sinh Ma Thần Xi Vưu.
“Ngày mai ta đến núi Nam Bình.” Hạng Thuật nói, “đêm khuya rồi, về nghỉ ngơi đi.”
Trần Tinh “ừ” đáp lại, chỉ thấy Hạng Thuật búng ta ra luồng gió dập tắt ngọn đèn.
Trần Tinh vốn định mượn hơi rượu đến tâm sự với Hạng Thuật, không ngờ Hạng Thuật ngoài chuyện của Khu ma ti, cũng không nói gì khác với cậu, Trần Tinh lúc này cảm nhận được câu nói của Hạng Thuật “trong đầu ngươi ngoài chuyện của Khu ma ti thì không còn gì khác sao?” Lại thấy Hạng Thuật không có ý giữ cậu lại, cậu đành ra ngoài, đã thấy y cầm khương địch, ngồi lên một chiếc giường thấp trong vườn, chân dẫmlên thành giếng, thử âm.
“Huynh muốn thổi khương địch sao?” Trần Tinh hỏi.
Hạng Thuật giương mắt thoáng liếc nhìn Trần Tinh, cau mày nói: “Không quay về à?”
Trần Tinh đành quay người rời đi, vừa đi mấy bước lại nghe thấy khúc ‘Phù Sinh’ quen thuộc vang lên phía sau, cậu dừng bước quay lại nhìn, chỉ thấy Hạng Thuật ở trần, da thịt dưới ánh trăng như được dát bạc, quần trắng như tuyết, tóc đen buông xoã bên mai, nhắm hai mắt, cực kỳ chăm chú, cực kỳ hứa hẹn, tựa như một viên ngọc được mài sáng.
Âm thanh vang lên, Tạ phủ như có tiếng nước róc rách chảy, núi cao sừng sững, rừng trúc ngút ngàn, trong chớp mắt mọi thứ như được truyền thêm sức sống. Giữa đêm trăng sáng chiếu rọi khắp vùng, chẳng biết tại sao Trần Tinh lại nghe ra một ý tứ trong khúc nhạc mà trước đó ở Cáp Lạp Hoà Lâm cậu chưa từng thấy.
Lúc tiếng nhạc dâng lên, có một phần cô tịch khiến Trần Tinh như nhìn thấy Tương Dương, ngày hai người mới quen, Hạng Thuật đang gửi gắm hồi ức gì vào khúc Phù Sinh sao? Ngay sau đó, một đoạn âm thanh mang theo vạn quốc thiên chung, phong cảnh Trường An thịnh thế, sau đó lại thấy vài sợi âm thanh cô độc chốn thảo nguyên Sắc Lặc Xuyên.
Là cậu nghĩ nhiều, hay thực sự Hạng Thuật đang mượn tiếng khương địch để hồi tưởng?
Trần Tinh trở về phòng, gỡ cổ cầm trong phòng xuống, gảy dây đàn mấy lần, cùng Hạng Thuật tấu khúc Phù Sinh.
Phòng ngủ hai người cách xa nhau, nhưng âm thanh vẫn nghe thấy rõ ràng, hoà cùng với nhau, tiếng đàn Trần Tinh bên này vang lên, thì bên Hạng Thuật dừng lại, dường như vì tiếng đàn mà nỗi lòng rối loạn.
Nhưng chẳng bao lâu, Hạng Thuật đã điều chỉnh lại, Trần Tinh nhẹ tấu cổ cầm, tiếng khương địch của Hạng Thuật lại nối tiếp, cho đến khi tiếng đàn tiếng khương cùng thay đổi, như có thần giao cách cảm, lại đến vùng Giang Nam êm đềm. Trần Tinh đã hiểu, không phải cậu suy đoán lung tung, Hạng Thuật đúng là dùng tiếng địch như gửi gắm điều gì.
Mà cậu còn chưa nghe rõ ẩn ý sâu xa trong khúc Phù Sinh, Hạng Thuật đã thu khương địch, Tạ phủ trở về yên lặng.
Trần Tinh kinh ngạc ngẩn người, cố nhớ tiếng địch đã qua, như bóng hình trong ảo mộng rực rỡ, chút mơ mơ hồ, lại hơi hơi toả sáng, cảnh tượng ấy lại chẳng chân thực. Đợi một lúc lâu, không nghe thấy tiếng địch, Trần Tinh vuốt dây đàn, gảy một chút.
“Ting” một tiếng.
Hạng Thuật thu khương địch xong đang định đứng dậy, nghe thấy tiếng đàn thì lại ngồi xuống, ngẩng nhìn thiên không quang đãng của đêm thu, vầng trăng được bọc quanh một quầng sáng nhạt.
Trần Tinh lại nhẹ nhàng gảy đàn, mấy tiếng rung động, sau đó cậu cúi đầu nhìn, trôi chảy đàn một lượt. Khúc nhạc này là một phần của “Quảng Lăng tán” do Kê Khang người Tấn sáng tác, tương truyền Kê Khang bị nhà Tư Mã ban chết, lúc sắp tử hình bèn tấu khúc Quảng Lăng tán, sau đó ung dung chịu chết, khúc nhạc tiêu sái, không tiếc quãng đời còn lại, chỉ có gửi gắm tình cảm vào đất trời.
Hạng Thuật nghe một hồi, đứng dậy đẩy cửa ra, đến đông sương, đứng dưới ánh trăng, nhìn xuyên qua hành lang, chỉ thấy Trần Tinh vẫn rất thản nhiên, khoé miệng hơi cong lên, dường như mọi người đều đang ngủ chỉ có mình cậu tự tiêu khiển tự chơi đàn, khúc Quảng Lăng tán có mấy phần sức sống thiếu niên, thay đổi hẳn bản ý ban đầu của Kê Khang.
Khi còn bé, Trần Tinh được học cầm nghệ, nhưng cũng ít đánh đàn, phụ thân từng nói “Thanh âm bán đứng nội tâm người”. Bây giờ nghĩ lại, cuối cùng cũng hiểu được ý của lời nói lúc ấy.
Cuối cùng, Hạng Thuật mở cửa sân cửa phòng, thở dài, trở lại phòng nằm xuống, trên hai ngón tay là chuỗi dây đỏ, y giơ lên trước mặt nhìn một hồi, cho đến khi tiếng đàn lịm dần, cách đó không xa có tiếng đóng cửa, Hạng Thuật mới tiện tay thảy lên, vòng tay rơi lên bàn, phát ra một tiếng vang nhỏ.
Tranh của 纸上有仙
_________
“Quảng Lăng tán” là một cầm khúc nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa. Ghi chép về “Quảng Lăng tán” trong tư liệu lịch sử không ít, nhưng lại mâu thuẫn với nhau, khiến cho khúc nhạc này càng thêm phần bí ẩn. Trong các điển cố về “Quảng Lăng tán” thì câu chuyện tiếng đàn gắn liền với khí tiết của Kê Khang thường được người đời sau ngưỡng mộ đem lòng nhắc tới.
Thời Ngụy Tấn, có một nhạc gia nổi tiếng trong nhóm “Trúc Lâm thất hiền” là Kê Khang. Trong Cầm phú của ông có những câu như: “Chúng khí chi trung, cầm đức tối ưu” (Trong các loại nhạc khí, thì đức của đàn cầm là nhất), “Hàm thiên địa chi thuần hòa hề, hấp nhật nguyệt chi hưu quang” (Ngậm khí thuần hòa của trời đất, hấp thụ vẻ đẹp của mặt trăng mặt trời), v.v. Điều đó hàm ý rằng Kê Khang rất yêu cầm nghệ.
Lúc bấy giờ, họ Tư Mã đang tiếm quyền Tào Ngụy, Kê Khang tài giỏi nhưng tính tình cương quyết. Ông luôn đứng về phía nhà Ngụy, một mực tỏ thái độ không hợp tác với họ Tư Mã.
Năm 262 sau Công Nguyên, vì không chịu hợp tác với chính quyền họ Tư Mã, Kê Khang bị Tư Mã Chiêu mượn cớ sát hại. Theo Tấn thư ghi, lúc Kê Khang ở trong ngục, có 3.000 thái học sinh yêu cầu miễn xá cho ông và nguyện ý bái ông làm thầy, nhưng không được chấp nhận.
Khi Kê Khang lâm hình, thấy còn chút ít thời gian bèn xin cho mang đến một cây cổ cầm, rồi ông ung dung diễn tấu lần cuối khúc nhạc tâm huyết nhất đời mình là “Quảng Lăng tán”. Ðàn xong ông nói: “Có kẻ xin học bài này, ta không dạy, thế là từ đây không ai còn đàn bài Quảng Lăng này nữa”.