Lý Triều Bá Đạo Phò Mã

Chương 744: Nam nhân Đại Việt- No1 ( 02)






“ Xem nào xem nào... Yi-seul sướng nhất nhé....”

“Hứ.. ta xinh hơn mà kém may mắn thôi..”

“ Thích nhỉ”

Lúc này cả đám chị em Tân La đã vào đến chợ, vị sĩ quan Kỵ binh Đại Việt Đế Quốc cũng đi rồi.

Yi-seul nghĩ lại càng nghĩ càng thích thú, kệ đám chị em trêu ghẹo, nàng vừa đi vừa tủm tỉm cười khoái trí, trong tay ôm chặt súc gấm chết không buông, đây là định tình tín vật ấy, mất không được.

Số là ông tướng Lê Văn Phong đọc cuốn sách dạy làm nam nhân tốt đã nghiện, dập khuôn mà làm. Thằng này làm gì có kinh nghiệm tiếp xúc giới nữ, 17 tuổi đi lính, cơ thể cao lớn nhanh nhẹn, lại vượt qua mấy bài kiểm tra cả về độ trung thành lẫn chỉ số IQ cho nên được tuyển vào Kỵ Binh rồi cho huấn luyện đặc biệt. Năm nay 19 tuổi đến nói chuyện với nữ giới cũng là chị gái và mẹ ở nhà. Nào đã tiếp xúc ai, đâu biết con gái xấu hổ mặt nó sẽ đỏ như gà chọi, lại thêm người Triều Tiên da khá trắng nên càng lộ.

Ông tướng này nghĩ con nhà người ta mang nặng nên mệt, thì ở quân doanh là vậy mà, luyện tập căng lên, mặt không tái mét chính là đỏ lựng. Cái này biểu hiện quá sức thôi... Lê Văn Phong biết. Hắn lấy quân doanh luyện tập đi đánh giá thiếu nữ là đủ hiểu độ gà ở đâu.

Cho nên xuất phát từ ga lăng, theo lời dạy vạn ác trong sách hắn đỡ lấy cái gùi sau lưng cô gái ý bảo sẽ mang giúp.

Yi-seul thì lúc này bị thôi miên rồi, nào biết trời chăng là gì, xấu hổ cúi đầu cởi luôn gùi đưa cho trai lạ. Sau đó lúi húi đi theom, cả hai dọc về phía chợ.

Nào nói dược caia gì đâu, hỏi được tên là hết, vì tiếng đâu có thông, nhưng quan trọng quái gì... đôi lúc có những chuyện ngôn ngữ rào cản cũng cản không được.

Mấy chị già trong nhóm bạo lắm, thấy anh chàng Việt Đế Quốc có vẻ ngây ngô, cho nên bạo gan trêu luôn, đưa gùi nhờ cầm giúp.

Chỉ là đùa thôi.

Ai ngờ tướng quân Đại Việt giúp thật.

Nhận hết gùi của chị em.

Chỉ tội chiến mã ai oán nhìn chủ nhân mà nghĩ...” Ông chủ, tôi là chiến mã đấy nhé, không phải ngựa thồ... dỗi đấy”

Thì gùi mắc hết lên chiến mã còn đâu, gentleman Đại Việt mang chị em Tân La đến chợ thì vẫy tay chào mà về doanh, hắn cũng không được phép bên ngoài quá lâu.

Trời đất, thằng khốn nầy không những đốn tim Yi-seul mà đốn sạch sẽ tim của mấy cô nàng mắt híp một mí chưa chồng sứ Tân La ở đây rồi.

“ Người đâu mà tốt, mà đẹp trai vậy... biết tiếng Đại Việt Đế Quốc là tốt rồi...” một chị gái trêu gẹo mấy cô.

Nhưng mà câu nói này lại gợi ra một ý khác.

Vẫn còn cơ hội cạnh tranh, hàng đã về tay Yi-seul đâu, chỉ cần biết tiếng Việt sẽ dễ dàng hơn tiếp cận anh chàng này....

Yi-seul chợt thấy trong lòng vụt lo, chị em thân thiết giờ đây nhìn bạn trai nàng ( tự cho là) bằng ánh mắt của sói.... này chị em cái máu à.

Đùng đùng... đoàng đoàn đào...

“ Hàng hai.... bắn,”

Đùng đùng.....đùng...

Hàng ba... BẮT”

Đoàng đoàng....

Tiếng súng trong doanh trại vẫn dền vang không ngớt... khói súng như làn sương mờ bao tỏa hết toàn quân... mệnh lệnh là tiếng Việt, chỉ huy sĩ quan là người Việt, những binh sĩ Việt gốc Tân La này đều phải học những từ ngữ Việt cơ bản dùng trong quân, tổng chung cũng chỉ có 20-25 mệnh lệnh thôi không quá nhiều. Cho nên hai tháng học chừng ấy không thể nào là khó cả.

Bên một sân tập khác... một đám lớn quân Tân La nhìn vũ khí trong tay mà cười khổ.

“ Do-dam ngươi nghĩ xem lúc nào chúng ta mới được vào đội Hỏa Mai Súng chính thức..?” Một tên Tân La lên tiếng...

“ Phải luyện tập chăm chỉ hơn, nghe hiểu nhiều mệnh lệnh hơn, thuần thục động tác hơn mới được tuyển lên chính thức quân. Thật oai phong” người tên Do-dam lên tiếng trả lời.

“ Thằng Ba-rom bên tiểu đội 13 được lên chính thức rồi đó”

“ Nó giỏi mà... hai mươi tích tắc có thể nạp xong đạn rồi vào tư thế bắn... chúng ta toàn 25 tích tắc mà , kém nhiều lắm, cần luyện tập chăm hơn”

“ Phải rồi, nghỉ ngơi đã đủ, tiếp tục luyện tập thôi…. Mọi người cùng cố gắng, bảo vệ Busan . Không thể để cho quý tộc tà ác quay lại”

“ Cố gắng lên”

Trời vẫn còn rất lạnh nhưng đám Tân La binh lại toát mồ hôi như tắm, bọn hắn luyện tập siêu cấp hăng say. Không cần thúc dục vì đây toàn là binh sĩ xuất thân nô lệ.

Ở Buán lúc này có ba tầng lớp. Dân tự do có tiền bản thổ, đám này từ thời trước khi Minoru đến đây đã là kẻ có tiêng và dân tự do, bao gồm một số học thức gia đình cùng thương nhân. Số này chiếm 15% dân Busan.

Nhóm thứ hai là dân thường tự do, làm công cho đám nhà giàu hoặc có ít ruộng đất. Nhóm này chiếm 40%.

Nhóm cuối cùng là nô lệ trong tay quý tộc và trong tay nhóm nhà giàu 15% kia. Họ chiếm 45% dân số.

Đại Việt là cưỡng ép giải phóng hoàn toàn bọn họ, và bá đạo áp lệnh thuế luỹ tiến lên đám 15% tiểu thế gia nhà giàu học thức các kiểu. Cách làm này có lợi có hại bàn sau.

Nhưng cách làm này khiến Đại Việt có thể ổn định rất nhanh tại Busan, vì Đại Việt chỉ cần số lượng đông người ủng hộ là bọn họ sẽ đứng vững. Đại Việt có nhiều cách quản lý tân tiến khiến cho việc phải dựa vào thế gia để quản dân bị loại bỏ.

40% tiểu nông, tiểu hộ cũng nhanh chóng tăng lên hảo cảm với Đại Việt đế quốc, dưới sự thống trị của Đại Việt sự công bằng được đặt cao hơn, thuế má lại giảm mạnh, cho nên rất nhanh chinh phục được người dân tự do nhưng nghèo nơi này.

Đảm bảo nếu quân Nhật tiếp tục chiếm đóng Busan thể nào cũng có bạo loạn, phản kháng, nhưng Đại Việt thống trị thì lại rất êm.

Nhóm 15% bọn có tiền, có học thức chắc chắn sẽ gây rối, nhưng không có cách, không thể nào vừa ts toàn dân được, chính sách của Đại Việt nhất quán. Giải phóng nô lệ, nông nô, dựa vào sự ủng hộ của số đông để đứng vững ở nơi chiếm đóng. Tăng cường chặt chẽ theo dõi quản lý đám tầng lớp đã từng là giai cấp thống trị bằng Cẩm Y Vệ, Ưng Vệ. Có bất kỳ động tĩnh nào sẽ đàn áp và trục suất vĩnh viễn hoặc lưu đày. Nhóm quý tộc thì một là tiêu diệt hai là cầm tù đưa về Đại Việt hay đưa đến các khu Đô Hộ Phủ xa lạ.

Làm như vậy thật trong thời gian ngắn không thể kiếm lời từ vùng đất chiếm đóng, vì chỉ với 15% dân số nhưng đám thương nhân, nhà giàu, tiểu thế gia mới là lực lượng kiếm được nhiều tài nguyên nhất cho hệ thống lãnh chúa nơi này.

Nhưng Đại Việt quan tâm dăm ba cái thu nhập này sao?

Chỉ cần đủ dân, ôm dăm ba cái mỏ, lập nên dăm ba cái khu nguyên liên, dựng lên nhà máy công xưởng thì có mà kiếm gấp 10 gấp trăm lần lũ kia.

Do không có yếu tố lợi ích kinh tế ràng buộc, vì bản thân Đại Việt mới là người mang đến lợi ích kinh tế vì công nghệ của Đại Việt quá vượt trội, đây mới là ưu thế then chốt. Đã không có bị đám Thế gia lợi ích kinh tế ràng buộc thì chúng không còn có giá trị lợi dụng. Chỉ cần láo nháo là lưu đày cả lũ.

Nhưng thiếu thế gia sẽ khó quản lý dân?

Đúng mà không đúng.

Nếu Đại Việt đến đất này với mục tiêu áp bức bóc lột sưu cao thuế nặng thì cần thế gia bản thổ giúp Đế quốc quản lý dân. Điều đó tương tự Thực Dân Pháp làm với Việt Nam trong lịch sử. Lúc đó việc quản lý dân cực khó , nhiều cuộc nổi dậy cho nên phải khống chế thế gia bản thổ và dựa vào họ để khống chế dân.

Nhưng nếu đến với mục đích thực tâm giải phóng nô lệ, nâng cao đời sống cho dân, cho họ quyền được sống, được mưu cầu hạnh phúc thì dân sẽ không điên mà đi gây sự. Bản thân dân thường và nô lệ ý tưởng phản kháng rất tồi, nhất là những vùng dân trí thấp.

Bọn họ cả đời bị giai cấp thống trị áp bức, kẻ xâm lược xét cho cùng là giai cấp thống trị mới mà thôi, có áp bức hơn thì thói quen chịu dựng vẫn còn đó. Cho nên tự thân nông dân, nông nô, nô lệ phản kháng … hay tổ chức đấu tranh là khá yếu.

Châm chọc nhất đó là những kẻ tiêm vào tinh thần dân tộc , ý tưởng đấu tranh cho nông nô, dân thường lại chính là giai cấp quý tộc hay địa chủ ở bản địa.

Nực cười đó là chính thế gia, địa chủ bản địa mới là giai cấp có tư tưởng lãnh thổ, dân tộc và quốc gia, và chính bọn họ mới là nhân tố lãnh đạo cho mọi cuộc khởi nghĩa, chính bọn họ mới là người kích động, tuyên truyền để nông nô, nông dân đi theo mà kháng chiến khởi nghĩa đánh quân xâm lược. Không tin cứ nhìn lịch sử sẽ hiểu.

Tất nhiên lý thuyết này sau thời Marx đã thay đổi, vì lúc đó giai cấp công nhân, nông dân đều đã có nhận thức cao và có tư tưởng tự do, tự giải phóng từ học thuyết của Marx. Chuyện chúng ta đàng nói là trước Marx thì các cuộc đấu tranh dân tộc, tinh thần quốc gia lại là đám thế gia, tri thức, giới cầm quyền cựu địa.

Từ đây dẫn đến một mâu thuẫn như vậy. Kẻ xâm lược không thể giết sạch thế gia bản địa vì kẻ xâm lược cần thế gia bản địa để quản lý, để giúp khai thác thuộc địa, giúp quản dân. Nhưng những thế gia bản địa lại là người có học thức, có tinh thần dân tộc, và có ý thức quốc gia lãnh thổ do họ được ăn học tử tế , cho nên sau một thời gian chắc chắn đám thế gia lại sẽ kích động dân làm phản. Từ đó việc chiếm đóng các lãnh thổ có chủ quyền , có tôn giáo, có thệ thống tư tưởng dân tộc luôn rất khó khăn.

Cái đám ảo tưởng nghĩ chiếm một vùng đất nào đó trong mấy nắm mấy tháng biến dân nơi đó thành người Việt sau đó cộng tổng dân số lên trăm vạn trăm triệu thì đúng là... Chỉ có thể tìm cách giải quyết tận gốc cái mâu thuẫn phía trên đã nêu mới có thể TẠM THỜI đứng vững tại vùng đất chiếm đóng.

Muốn làm được thì đầu tiên đừng nghĩ đến bóc lột dân, đừng nghĩ đối xử không công bằng với dân bản địa. Điều này nói thì dễ muốn làm khó. Vì binh sĩ , quan quân xâm lược thường có hệ tư tưởng mình là thượng đẳng cho nên cách đối xử với dân bản địa trước sau gì cũng mâu thuẫn. Nghĩ đến không bóc lột lại càng khó, vì nếu không bóc lột thì lấy tiền đâu duy trì quân đội? Muốn nâng cao đời sống của dân nơi chiếm đóng lại phải đầu tư cơ số tiền bạc thời gian vào đó. Thậm chí chó nguy cơ lộ công nghệ. Càng mở rộng theo cách này gánh nặng lên mẫu quốc càng lớn, lợi thì không có chỉ thấy mất tiền. Cho nên mới nói rằng, phát biểu dễ, làm mới khó.

Muốn làm được điều trên phải thỏa mãn các yếu tố, thứ nhất đó là hệ tư tưởng tại mẫu quốc phải đặc biệt tiến bộ và giáo dục cẩn thận cho quân sĩ , lấy tinh thần giải phóng nông nô, nô lệ làm chủ đạo. Như vậy tạm giải quyết được vấn đề mâu thuẫn quân xâm lược cùng người dân bản địa. Thứ hai yếu tố đủ đó là Mẫu Quốc kinh tế phải cực khủng để đỡ nổi việc nâng cao chất lượng sống của dân thường số lượng cực đông nơi chiếm đóng từ đó chiêm được lòng dân. Từ đó dẫn đến việc không thể lung tung mở lãnh thổ, không thể ngu ngốc điên cuồng mở lãnh thổ mà cần cân nhắc Mẫu quốc đủ tiềm lực hay không, và có thể gánh chịu bao nhiêu dân , bao nhiêu lãnh thổ. Tham môt chút là thành thành cẩu gặp thỉ vừa thối vừa hôi ngay.

Rất may Đại Việt có đầy đủ các yếu tố trên, bộ Chính Trị, Các cấm chính ủy đều đang hoạt động tốt, binh sĩ Đại Việt tinh thần Marx giải phóng nô lệ, tôn trọng dân bản địa rất mãnh liệt và luôn được bổ xung gây dựng. Bên cạnh đó kinh tế Đại Việt rất vững, và ban lãnh đạo không hề tham lam, họ cẩn thận, dè chừng mở rộng lãnh thổ có chọn lọc.

Khi vấn đề quan hệ giữa quân xâm lược – dân thường bản địa biến thành người giải phóng- dân thường bản địa thì làm gì còn đấu tranh, kể cả có cũng không hề phức tạp. Nhóm đầu trò gây rối là thế gia không cần tồn tại nữa, họ bị giam lỏng, bị quản lý chặt, thậm chí bị lưu đày. Không có ai kích động, không có ai tuyên truyền thì với dân thường, nô lệ được giải phóng rất ít, rất hiếm tự phát đấu tranh. Đây chính là thực tế.

Cho nên mới nói, Đế Quốc Đại Việt rất ít thôn phệ các lãnh thổ lân bang, nhưng kẻ nào bị họ nhắm sẽ rấy thảm.... rất khó có cơ hội lật ngược lại.

Dĩ nhiên không phải nơi nào cách này cũng dùng được.

Ví dụ như nơi ít nô lệ, nơi có nền văn hóa đủ cao, nơi có hệ thống tôn giáo cực mạnh ảnh hưởng toàn dân. Cách làm trên của Đại Việt không dễ thành công. Nhưng nơi như vậy có thể kể đến. Vùng đất người Hán, văn minh lâu đời, nô lệ còn ít, tư tưởng lãnh thổ dân tộc cao. Vùng đất Philippinges dân trí thập nhưng hệ thống nô lệ không rõ ràng. Ấn Độ Chola, tôn giáp mạnh mẽ, các quốc gia tuy chia năm sẻ bảy nhưng vấn đề tôn giáp quá nặng khó chỉ dùng giải phóng nô lệ mà thành công. Châu Âu- Hồi giáo vùng đất lại càng khó hơn nữa. Tôn giáo ở đây đã ngấm đến tận nô lệ, ý thức quốc gia lãnh thổ mạnh vô cùng.



Nhân sinh như một giấc mộng. Nếu một ngày ta hài lòng với cuộc sống hiện tại, rồi bỗng dưng xuyên không đến thế giới khác. Cảm giác lúc đó sẽ thế nào? Đau buồn, bi quan, tức giận hay chán nản gì thì cũng phải đứng lên. Bởi ngày mai, mặt trời vẫn mọc, vạn vật thời gian vẫn cứ trôi đi, ta vẫn phải sống tiếp.
Vì thế nên