Về Thời Trần Bán Thực Phẩm Chức Năng

Chương 134: . Tiến vào Địa cung



Chương 134. Tiến vào Địa cung

Khi Mạnh thông báo bầy chuột đang đến nhiều người sợ tái mặt, một số người đã đề nghị trèo ngược lại vách đá để cố thủ trên đó, dưới này địa hình rộng dễ bị t·ấn c·ông. Mạnh đã có chuẩn bị trước lên ra lệnh cho các thân binh tiến đến mang theo những cái hòm gỗ đã chuẩn bị từ trước. Trong hòm có những cây hỏa hổ và quả cầu lưu hoàng. Mấy người nhanh chóng tiến về phía trước nơi có con đường bằng đá độc đạo nối từ bãi đất t·hi t·hể với vách đá. Con đường này có chiều ngang tầm bốn mắt chắc ngày xưa để khiêng quan tài vào địa cung.Mọi người thường nhầm lăng tẩm và địa cung. Lăng tẩm và vua dùng lúc còn sống còn địa cung nơi để xác vua khi c·hết.

Một lát sau qua ánh đèn pin thấy đám chuột đang nối nhau kéo đến, con nào con đấy bằng con mèo. Mạnh cho bắn pháo sáng, dưới ánh sáng chói hàng nghìn con nối đuôi nhau thành một thảm chuột kéo dài cả trăm mét làm những người chứng kiến hoảng sợ. Nếu chúng t·ấn c·ông thì dù có lựu đạn hay đao kiếm thì cũng khó có thể ngăn chặn chúng.

Lúc này người đội trưởng ra lệnh ba người phía trước dùng súng hỏa hổ phun vào đám chuột, phía sau tung hỏa cầu. Những hỏa cầu phát huy tác dụng trong biển chuột chúng đốt cháy oxy làm lũ chuột nhanh chóng c·hết vì thiếu oxy. Khi những hỏa hổ phun hết, thì những người này lùi lại phía sau tiếp tục tiến lên để phun. Cứ như vậy sau hơn dùng hơn mười hai hỏa hổ và ba chục quả cầu thì bầy chuột quay đầu bỏ chạy. Mùi xác chuột cháy khét lẹt làm nhiều người phải lấy tay che mũi. Nhìn sơ sơ cũng phải vài trăm con chuột c·hết c·háy. Mọi người lại tiếp tục tiến về phía trước.

Đi qua vách núi, thấy có một cửa hang mọi người lục tục tiến vào. Lữ Danh Thuận cầm đèn pin đi đầu bước chậm dãi vừa đi vừa quan sát để đề phòng các cơ quan ngầm. Đường hầm rộng khoảng ba mét bằng đá có những vết đục đẽo chứng tỏ do con người phát hiện và khoét rộng ra làm lối đi. Không khí trong đường hầm khá lạnh lẽo và ẩm thấp. Tiến sâu vào bên trong tầm hai trăm mét thì xuất hiện mười cửa bằng đá có chạm trổ hình rồng vờn mây. Lữ Danh Thuận và nhìn mọi người nói.

-Ở đây có mười cửa nhưng chỉ một cửa là lối vào khu hầm mộ của Hoàng Đế còn lại là đường cụt và cạm bẫy, có thể nói là cửu tử nhất sinh. Chúng ta nên chia ra đề dò hay có phương án nào khác.

Mạnh đã dùng fly cam và rô bốt để dò từ mấy hôm trước và hiện cũng đang dò đường phía trước nên anh biết chỉ có cửa đá thứ hai bên phải là lối vào địa cung. Để dò ra con đường này anh cũng mất mấy con fly cam và ro bốt do thám cũng bị hư hỏng do dính cạm bẫy ngầm hiện đang phải tạm dừng việc thá·m s·át lại. Anh nói.

-Theo bản đồ và những dấu hiệu để lại chúng ta sẽ đi vào cửa thứ hai bên phải.

Nghe Mạnh nói vậy, mọi người đều không có ý kiến mà tiến vào cửa đó. Tiếp tục hướng vào sâu bên trong, Mạnh thấy điểm cuối đường hầm ở đó có một cánh cửa đá ghép lại từ bốn phiến cẩm thạch. Trục cửa đắp ngọc lưu li đốt thành hình Rồng quấn quanh cột, cạnh cửa là bức phù điêu Nhạc vũ bách hí đồ, trên cửa trạm trổ hình hai đứa trẻ đứng gác, phía sau lại không có phiến đá chặn, cửa chỉ dùng lính gác để trang trí. Sau khi cạy mở cánh cửa, chúng tôi phát hiện đằng sau nó là hành lang thông đến hậu điện linh cung, tối đen như mực.

Hồng Thất Công nhìn hai con rồng trên cửa, tinh thần lập tức hào hứng trở lại, hai mắt sáng bừng, nói với moi người.

-Tôi từng thấy loại cửa này ở một phiên đấu giá. Cái này gọi là Bàn long trục lưu ly xuyên, một phiến cửa mà giá lên tới nghìn lạng vàng rồi, cánh cửa này xem ra cũng không nặng lắm nhỉ…

Mạnh cười nói

-Phía trong còn có nhiều đồ châu báu đáng giá mà còn nhẹ hơn cái cửa này tội gì mà phải vất vả khiêng nó ra.

Anh nói xong mọi người lại tiến sâu vào hành lang, hướng về phía hậu điện. Hậu điện thông thường chính là cổng vào địa cung, bình thường đều đặt một cỗ quan quách mang tính trang trí, đốt nến trường sinh quanh năm không tắt, hoặc là đặt một lượng lớn tế phẩm, do người giữ lăng định kỳ thay đổi.

Tiến sâu vào hành lang, hai bên trái phải và trên đỉnh đầu phủ kín những bức bích họa, trên mặt bích họa lâu ngày nên trông mờ mờ ảo ảo nhằm kể lại một câu chuyện nào đó. Mạnh cảm thấy khá hứng thú đối với hình thức ghi chuyện này, bèn bật đèn pin lên ngắm nghía.

Vừa nhìn thoáng qua đã lạnh người, chỉ thấy trên những bức bích họa này hầu như đều vẽ hình Hắc long vần vũ trong mây, cuộn mình có, bay lên cũng có, phủ kín cả bức tường, thoạt nhìn giống như một bầy rết.Bích họa chia làm mấy phần, có bức vẽ rất nhiều binh sĩ mặc áo giáp, hướng lên Hắc long trên trời mà lễ bái. Bức tranh đầu tiên còn vẽ hai con Hắc long đang quấn lấy nhau, không biết chúng nó đang mây mưa hay là đánh lộn nữa.

Trên mỗi bức bích họa, Hắc long đương nhiên là chủ thể, những nhân vật xung quanh đều hết sức nhỏ bé, cũng hết sức nhún nhường, rõ ràng lòng sùng bái của người Hoa Hạ đối với loại rồng rất mãnh liệt. Mạnh vừa đi vừa suy nghĩ miên man, đi khoảng hơn hai trăm mét thì bích họa đột nhiên kết thúc, thì ra đã đến cuối hành lang, lối ra hậu điện đã ở ngay trước mắt.

Lối ra không có cửa chắn ngang, nhưng ở chính giữa lại bày một cái đế đèn chân hạc bằng thanh đồng, cao chừng nửa thân người, tạo hình kì lạ, mặt ngoài bao phủ một lớp bụi mỏng, khiến cho màu sắc thoạt nhìn hơi đen. Trong hậu điện trống rỗng, không có vật bồi táng nào, không cần phải tìm bởi vừa nhìn cái là biết. Giữa phòng là ba khối giường đá màu đen khắc hình Hắc long, bên trên chạm trổ kín hoa văn hình mây.

Cái này gọi là đình quan đài, quan quách sau khi đưa vào sẽ được đặt tạm lên đó. Ở đây có ba cái đình quan đài, hiển nhiên lúc nhập liệm không thể chỉ có một cỗ quan tài, vợ con của người bồi táng hẳn cũng được chôn cùng lúc với chủ nhân ngôi mộ. Chôn cùng người bồi táng, nghe qua thì thấy vô cùng bất hạnh, nhưng vào thời ấy cũng không còn cách nào khác. Mặt đất phía sau ba cái giường đá gồ lên một phiến đá hình chữ nhật cực lớn, trên phiến đá chạm khắc hai con quái điểu mặt người vờn quanh, chính giữa phiến đá chạm nổi Thái cực Bát quái đồ. Đây là tảng đá phong mộ, cửa vào địa cung hiển nhiên nằm dưới phiến đá này.

Lại tìm một vòng, bốn phía đều không có đường thông đến nơi khác. Cho đến khi lại gần phiến đá phong mộ kia, Lữ Danh Thuận vung tay, dùng sức nhấc thử, thấy không chút xê dịch mới gọi người khác tới giúp..Đề phòng bên dưới phiến đá có cạm bẫy cát độc nước độc gì đó, Lữ Danh Thuận cẩn thận kiểm tra mặt đất lát gạch xanh bên cạnh phiến đá phong mộ một lượt, thấy không có vấn đề gì, mấy thân binh lên hợp sức vần phiến đá qua một bên. Mấy người vạm vỡ khí lực quả thực không đùa, chỉ nghe uỳnh một tiếng, phiến đá đã nhích được một đoạn. Bọn họ tiếp tục dùng sức, từ từ đẩy tảng đá dẹp qua một bên.

Mọi người nhìn xuống phía dưới phiến đá, ai nấy đều lắp bắp kinh hãi, nơi đó không có bất kì dấu vết nào của một đạo động bí mật (không có tảng đá lấp cửa mộ) mà chỉ thấy toàn là gạch xanh giống hệt nền đất cạnh đó. Chỉ có một điểm khác là phiến đá đặt ở chỗ này đã mấy trăm năm, in lên nền đất một vết hình chữ nhật, lấy chân rờ lên sẽ thấy hơi lõm vào, thì ra gạch xanh bên dưới phiến đá đã bị lún xuống mấy li.

-Sao lại thế này?

Hồng Thất Công nghi hoặc hỏi:

-Phiến đá phong mộ này là giả, đặt đó chỉ để trang trí thôi à?

Lữ Danh Thuận ngồi xổm xuống, dùng hai ngón tay dài dị thường của mình kẹp lấy một viên gạch, dùng sức rút mạnh, cứ thế rút dần đám gạch trên mặt đất lên. Mấy người gặp anh lần đầu thấy thế thì há mồm trợn mắt, miệng không sao khép lại được. Hồng Thất Công có vẻ rất đắc ý, bày ra vẻ mặt:

-Thấy chưa? Xem người anh em của ta có lợi hại không?

Lữ Danh Thuận lại chẳng thèm nể mặt ông ta, từ đầu đến cuối không liếc hắn lấy nửa cái. Có một cái lỗ hổng thì dễ rồi, chúng tôi đều tiến lên trợ giúp, dùng cuốc chim đào gạch lên. Điều khiến người ta cảm thấy kỳ lạ nhất chính là những lớp gạch bên dưới vẫn không hề có vết tích được gắn bằng thép lỏng mà hoàn toàn là kết cấu đan xen lẫn nhau, thành ra cũng không khó đào.